Dự án nghiên cứu kinh tế du lịch tuần hoàn tại Huyện Côn Đảo

PHẦN 1: ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH DU LỊCH CÔN ĐẢO

1.1. Xu hướng du lịch toàn cầu và thực hành Kinh tế Tuần hoàn (KTTH) trong du lịch trên thế giới thời kỳ đại dịch COVID-19

1.1.1. Tác động của đại dịch COVID-19 đến ngành du lịch toàn cầu

 

Tác động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế

 

Theo Cơ quan thương mại và phát triển của Liên Hiệp quốc UNCTAD, tác động của đại dịch COVID-19 đối với du lịch có thể dẫn đến thiệt hại hơn 4 nghìn tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu. Sự phục hồi của ngành là “mong manh” và “chậm chạp “khiến du lịch trở thành một trong những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng y tế.

 

Bất chấp những cải thiện gần đây, nhu cầu đi lại có thể bị ảnh hưởng nhiều hơn do “tỷ lệ tiêm chủng không đồng đều trên khắp thế giới và các chủng COVID-19 mới đã dẫn đến các hạn chế đi lại mới ở một số quốc gia.

 

Trong vài ngày qua, sự xuất hiện của biến thể Omicron đã khiến hàng chục quốc gia khôi phục các quy định hạn chế về lượng khách đến hoặc trì hoãn việc nới lỏng các quy tắc thử nghiệm và du lịch COVID-19, dẫn đến sự không chắc chắn cho du khách trong kỳ nghỉ lễ trên toàn thế giới.

 

Giá dầu tăng vọt và sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu cũng có ảnh hưởng. Theo dữ liệu mới nhất của UNWTO, lượng khách du lịch quốc tế dự kiến sẽ vẫn thấp hơn 70-75% so với mức của năm 2019 vào năm 2021, mức giảm tương tự như vào năm 2020.

 

Mặc dù lượng khách du lịch đăng ký trong tháng 7-9 năm nay đã tăng 58% so với cùng kỳ năm 2020, nhưng con số này vẫn thấp hơn 64% so với mức của năm 2019, theo cơ quan của Liên hợp quốc.

 

Vào tháng 8 và tháng 9, lượng người đến thấp hơn 63% so với năm 2019, đây là kết quả hàng tháng cao nhất kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19. Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2021, lượng khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới thấp hơn 20% so với năm 2020, một sự cải thiện rõ ràng so với mức giảm 54% trong sáu tháng đầu năm.

Theo Phong vũ biểu Du lịch Thế giới mới nhất của UNWTO, mặc dù đã có sự cải thiện trong quý 3 của năm 2021, nhưng tốc độ phục hồi vẫn còn chậm và không đồng đều giữa các khu vực trên thế giới.

Ở một số tiểu khu vực, chẳng hạn như Nam và Địa Trung Hải châu Âu, Caribê, Bắc và Trung Mỹ, lượng khách thực sự đã tăng trên mức 2020 trong chín tháng đầu năm 2021.

 

Tuy nhiên, lượng khách đến châu Á và Thái Bình Dương đã giảm tới 95% so với năm 2019, do nhiều điểm đến vẫn đóng cửa cho các chuyến du lịch không thiết yếu.

 

Châu Phi và Trung Đông lần lượt ghi nhận mức giảm 74% và 81% trong quý 3 so với năm 2019.

 

Tác động của đại dịch COVID-19 đến sinh kế – môi trường tự nhiên

 

Có tới hơn 100 triệu việc làm trực tiếp trong lĩnh vực du lịch đang gặp rủi ro. Trong đó, các lĩnh vực liên quan đến du lịch như các ngành dịch vụ ăn uống và lưu trú sử dụng nhiều lao động cung cấp việc làm cho 144 triệu lao động trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp nhỏ (chiếm 80% du lịch toàn cầu) đặc biệt dễ bị tổn thương.

 

Phụ nữ, chiếm 54% lực lượng lao động du lịch, thanh niên và công nhân trong khu vực kinh tế phi chính thức là những đối tượng có nguy cơ cao nhất.

 

Sự sụt giảm đột ngột của du lịch đã cắt đứt nguồn tài trợ cho việc bảo tồn đa dạng sinh học. Khoảng 7% du lịch thế giới liên quan đến động vật hoang dã, một phân khúc tăng 3% hàng năm. Điều này khiến việc làm gặp rủi ro và đã dẫn đến sự gia tăng săn bắt trộm, cướp bóc và tiêu thụ thịt từ động vật hoang dã.

 

Sự tham gia của cộng đồng vào du lịch thiên nhiên cho thấy cộng đồng, bao gồm cả người dân bản địa, đã có thể bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên của họ như thế nào đồng thời tạo ra của cải và cải thiện cuộc sống của họ. Tác động của COVID-19 đối với du lịch gây thêm áp lực lên việc bảo tồn di sản cũng như đối với cấu trúc văn hóa và xã hội của cộng đồng, đặc biệt là đối với người bản địa và các nhóm dân tộc thiểu số.

 

Ví dụ, nhiều hoạt động thực hành di sản văn hóa phi vật thể như lễ hội và tụ họp truyền thống đã bị tạm dừng hoặc hoãn lại và với việc đóng cửa các thị trường thủ công mỹ nghệ, sản phẩm và hàng hóa khác, doanh thu của phụ nữ bản địa đã bị ảnh hưởng đặc biệt.

 

90% các quốc gia đã đóng cửa các Di sản Thế giới, gây ra những hậu quả to lớn về kinh tế – xã hội cho các cộng đồng sống dựa vào du lịch. Hơn nữa, 90% viện bảo tàng đóng cửa và 13% có thể không bao giờ mở cửa trở lại. (Theo UNWTO).

Tác động của đại dịch COVID-19 đến đầu tư du lịch

Đại dịch COVID-19 đã làm sụt giảm nghiêm trọng về các khoản đầu tư lớn vào lĩnh vực du lịch. Đầu tư nước ngoài được công bố vào lĩnh vực du lịch đã giảm từ 48,5 tỷ USD vào năm 2019 xuống còn 12,6 tỷ USD vào năm 2020 theo thông tin tình báo của fDi từ Financial Times. Điều này thể hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào du lịch giảm mạnh 73,2% trong nửa đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm 2019.

Mức sụt giảm trong lĩnh vực du lịch là cao nhất, đặc biệt là khi so sánh với FDI toàn cầu giảm 42 % vào năm 2020 theo UNCTAD. Kết quả là, ngành này đã mất khoảng 910 tỷ USD đến 1,2 triệu USD doanh thu xuất khẩu vào năm 2020 so với năm 2019, cho thấy khoảng 100–120 triệu việc làm du lịch trực tiếp có nguy cơ bị rủi ro do FDI toàn cầu vẫn yếu vào năm 2021, giảm thêm 5– 10%.

 

1.1.2. Xu hướng du lịch sau đại dịch COVID-19

 

Xu hướng chung

Tình hình du lịch vẫn khá bất thường do đại dịch COVID-19 đang diễn ra phức tạp. Cuộc khủng hoảng đã đánh dấu một sự thay đổi đáng kể đối với tất cả mọi người, và trên hết là đối với du lịch, một trong những lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi virus.

Năm 2020 là năm mà du lịch quốc tế gần như đi vào bế tắc, và các lựa chọn thay thế duy nhất là du lịch nội địa và địa phương.

Năm 2021 đã cho thấy ​​một số cải thiện, nhưng chỉ ở một khía cạnh rất nhỏ khi các hạn chế vẫn còn được áp dụng và nhiều quốc gia vẫn còn đóng cửa biên giới hoàn toàn hoặc một phần.

Rất khó để đưa ra ước tính cho năm 2022 vì chưa biết đại dịch sẽ diễn biến như thế nào. Tuy nhiên, có thể nói về các xu hướng du lịch mới có khả năng xuất hiện trong năm tới:

Du lịch quốc tế với các hạn chế vẫn được duy trì bởi cả điểm đến và hãng hàng không nhằm đảm bảo an toàn 100% cho người tiêu dùng.

Tăng cường thử nghiệm COVID-19; hai năm sau đại dịch, xét nghiệm COVID vẫn sẽ được thực hiện như một biện pháp phòng ngừa.

Du lịch có ý thức sẽ được khuyến khích. Đi du lịch đến các điểm đến xa hơn, nhưng với thời gian lưu trú kéo dài, vì người tiêu dùng muốn tận hưởng càng nhiều càng tốt mỗi nơi họ đến thăm.

Du lịch xanh. Biến đổi khí hậu là một vấn đề đang diễn ra hiện nay và ngày càng gia tăng. Người tiêu dùng bây giờ có trách nhiệm hơn nhiều và nhận thức được thực tế họ đang sống hàng ngày.

Một xu hướng mới là “Ed_venture”. Đó là về việc kết hợp giáo dục và các kỳ nghỉ cho các thành viên nhỏ tuổi nhất trong gia đình. Trong khi người lớn có thể cần làm việc từ xa hoặc tham gia các cuộc họp, con cái của họ có thể học tập trong suốt hành trình trải nghiệm.

Lĩnh vực du lịch trải qua những thay đổi nhanh chóng trong hoạt động khi đại dịch đẩy nhanh quá trình chuyển sang kỹ thuật số, với việc các doanh nghiệp điều chỉnh mô hình hoạt động và mở rộng công nghệ cho các hoạt động dịch vụ. Với số hóa ngày càng tăng trên lĩnh vực kinh doanh quốc tế, các sự kiện kết hợp đã trở thành một mô hình mới cho doanh nghiệp và các nền tảng được hỗ trợ bởi công nghệ hiện nâng cao cho các hoạt động trực tiếp.

Xu hướng về hành vi tiêu dùng của khách du lịch sau đại dịch

Một xu hướng nổi bật là sự gia tăng nhận thức về môi trường và tác động của khách du lịch đối với cộng đồng địa phương. Khách du lịch được kỳ vọng sẽ quan tâm nhiều hơn đến tính bền vững và các nỗ lực của cộng đồng – đồng thời tìm cách trung thành với các thương hiệu, công ty và tổ chức phù hợp với giá trị của họ.

 

Từ thị hiếu này, các khách sạn hoặc điểm đến có xu hướng đặt trách nhiệm quan trọng của mình cho việc bảo vệ các cộng đồng địa phương và hành tinh, để các điểm đến nơi hoạt động có thể vẫn sôi động và có khả năng phục hồi cho các thế hệ sau.

Du lịch có Mục đích là chiến lược Quản trị Môi trường và Xã hội (ESG) nhằm thúc đẩy du lịch và du lịch có trách nhiệm trên toàn cầu, tăng gấp đôi đầu tư vào tác động xã hội và cắt giảm một nửa dấu chân carbon, bắt đầu hành trình xác định lại du lịch bền vững cho chương trình Nghị sự năm 2030 và tầm nhìn 2050.

1.1.3. Xu hướng về thực hành Kinh tế Tuần hoàn (KTTH) trong du lịch trên thế giới thời kỳ COVID-19

 

Cuộc khủng hoảng COVID-19 đang thách thức thế giới quan và cấu trúc kinh tế xã hội đã được thiết lập. Ngành du lịch là ngành đầu tiên phải đối mặt với cú sốc đứt gãy nhu cầu đột ngột trên toàn cầu. Tương lai và hình thức của ngành công nghiệp sau đại dịch là không chắc chắn.

Cả thế giới đang mong muốn trở lại “bình thường” càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng này mang đến một cơ hội duy nhất để phản ánh và đặt ra những câu hỏi quan trọng về tương lai, bao gồm những câu hỏi liên quan đến các tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội của ngành, khả năng phục hồi tổng thể, rủi ro và cơ hội giữa những thách thức về tính bền vững của thế kỷ 21.

Từ thực tế đó, các ý tưởng KTTH nhằm hướng dẫn sự phát triển bền vững hơn, linh hoạt hơn và có thể chứng minh được tương lai của ngành du lịch như thế nào.

Nền KTTH đã và đang phát triển trong những năm gần đây, nhờ tiềm năng tối ưu hóa đáng kể việc sử dụng tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kinh (KNK) liên quan đến sản xuất và tiêu dùng, đồng thời mang lại cơ hội lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

Trong kịch bản “kinh doanh như thường lệ”, những thách thức kinh tế xã hội và môi trường tiềm ẩn của ngành du lịch và xã hội sẽ vẫn còn và càng trở nên trầm trọng hơn khi số lượng người tiêu dùng du lịch toàn cầu tăng lên.

Các vấn đề du lịch quá mức, phát thải KNK và suy thoái sinh quyển sẽ không tự động biến mất một khi cuộc khủng hoảng COVID-19 được kiểm soát. Hơn bao giờ hết, những thách thức đó sẽ cần được giải quyết tích cực để xây dựng lại một ngành du lịch bền vững hơn về kinh tế và môi trường.

Điều trọng tâm hiện nay là giải quyết các hậu quả về khủng hoảng kinh tế và sức khỏe tức thời của đại dịch. Tuy nhiên, những nỗ lực phục hồi kinh tế trung và dài hạn ảnh hưởng đến hệ sinh thái du lịch có thể rơi vào hai con đường riêng biệt:

  • Mô hình kinh doanh như hiện nay là mô hình tăng trưởng tuyến tính dựa trên khối lượng ‘khai thác, sử dụng và tạo ra chất thải’.
  • Một mô hình tuần hoàn; được thiết kế có chủ đích để tái tạo vốn tự nhiên, con người và xã hội, hoạt động theo ranh giới bền vững giữa các điểm đến địa phương và toàn cầu.

 

Do đó, để phát triển giá trị cốt lõi của kinh tế bền vững thì việc thực hành KTTH cho ngành du lịch sẽ đưa ra một lộ trình hướng tới một hệ sinh thái du lịch có khả năng phục hồi và bền vững. Nó cũng cho thấy rằng du lịch có một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế tuyến tính sang KTTH, vì ngành này có liên kết sâu sắc và phụ thuộc vào nhiều dòng tài nguyên chính, chuỗi giá trị tài sản và hàng hóa trong xã hội – bao gồm nông nghiệp và thực phẩm, môi trường xây dựng và ngành giao thông vận tải. Các tác nhân du lịch và lữ hành có thể đóng vai trò là người hỗ trợ lưu thông và hưởng lợi từ việc tạo ra giá trị tuần hoàn được chia sẻ và nắm bắt giá trị trong các chuỗi giá trị có liên quan.

Thông qua cách tiếp cận tư duy hệ thống dựa trên sự hợp tác, đổi mới mô hình kinh doanh và đồng tạo giá trị, các tác nhân ngành du lịch có thể tăng khả năng phục hồi của toàn tổ chức và toàn ngành, giảm tác động tiêu cực đến hệ sinh thái tự nhiên và cung cấp giá trị kinh tế và xã hội cho hệ sinh thái du lịch và các bên liên quan gián tiếp.

Lộ trình chuyển đổi từ nên kinh tế tuyến tính sang nền KTTH sẽ áp dụng cho các phân ngành du lịch trọng điểm như ăn ở, vận chuyển, hoạt động, thực phẩm và đồ uống, tổ chức sự kiện và phân phối. Bối cảnh thị trường khác nhau sẽ tạo ra các chuyển đổi tuần hoàn khác nhau.

1.2. Điển cứu về KTTH trong du lịch tại các đảo

 

1.2.1 Mô hình KTTH trong du lịch tại đảo Guam

Guam, một lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ, là hòn đảo lớn nhất và đông dân nhất ở phía tây Thái Bình Dương của Micronesia với dân số ước tính khoảng 170.000 người. Đảo Guam nằm ở phía tây bắc Thái Bình Dương, cách Hawaii khoảng 6.100 km về phía tây, cách Nhật Bản 2.400 km về phía nam và cách Hàn Quốc 3.020 km về phía đông nam.

Nền kinh tế của Guam chủ yếu được hỗ trợ bởi du lịch, cùng với chi tiêu quân sự và chính phủ. Trong năm tài chính 2019, Guam đã đón 1,63 triệu lượt du khách, đánh dấu đây là năm có thu nhập tốt nhất cho đến nay đối với ngành du lịch của hòn đảo.

Du khách đến từ Hàn Quốc chiếm 45% trong tổng số khách du lịch năm 2019 và 41% là Từ Nhật Bản. Những khách còn lại đến từ Hoa Kỳ, Đài Loan, Philip-pines, Trung Quốc và các khu vực khác. Ngành du lịch của Guam là ngành du lịch lớn nhất duy nhất của hòn đảo. Nó tạo ra 1,75 tỷ đô la hàng năm và ngành công nghiệp này sử dụng hơn 21.000 cư dân trên đảo hoặc 31% lao động ngoài liên bang.  Nền kinh tế của Guam rất giống với nhiều nền kinh tế đảo nhỏ khác phụ thuộc nhiều vào ngành du lịch để tạo ra doanh thu cho các dịch vụ công cộng của hòn đảo. Guam đáp ứng 90% nhu cầu của cộng đồng trên đảo thông qua hàng hóa nhập khẩu và sử dụng bãi rác làm chiến lược quản lý chất thải, mặc dù không gian sẵn có trên đảo là một nguồn tài nguyên hữu hạn.

Do sự phụ thuộc của hòn đảo vào nhập khẩu và thực hành quản lý chất thải giá cao, việc xây dựng nền kinh tế tuần hoàn có ý nghĩa đối với Guam và các đảo nhỏ khác. Theo đuổi việc thực hiện các mô hình kinh doanh kinh tế tuần hoàn có thể đạt được những bước tiến lớn trong việc làm cho một hòn đảo trở nên xanh và bền vững hơn.

Hơn nữa, với du lịch là ngành công nghiệp lớn nhất, việc áp dụng các nguyên tắc kinh tế tuần hoàn cho các doanh nghiệp tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào du lịch; hoặc du lịch tuần hoàn có thể dẫn đầu cho sự bền vững lâu dài của ngành.

 

Đối với Guam, một số ví dụ về khởi xướng kinh tế tuần hoàn đã được khám phá bao gồm, chuyển đổi chất thải xanh thành phân trộn, biến chất thải nông nghiệp thành sản phẩm mới có thể bán được trên thị trường, chế biến chất thải thực phẩm thành thức ăn chăn nuôi, mô hình thuỷ canh và khai thác năng lượng tái tạo (mặt trời, gió, và đại dương).

Các sáng kiến KTTH cho du lịch Đảo Guam bao gồm: (1) Nghĩ về Guam. Hỗ trợ. Guam. Mua hàng địa phương của Guam; (2) Mỗi làng một sản phẩm; và (3) Local First Guam

  • Sáng kiến Nghĩ về Guam. Hỗ trợ. Guam. Mua hàng địa phương của Guam.

 

Sáng kiến này được giới thiệu vào năm 2011 bởi Phòng Thương mại Guam và Trung tâm Sáng kiến Kinh tế Thái Bình Dương của Đại học Guam, nhằm mục đích sửa đổi hành vi mua hàng của cư dân trên đảo bằng cách để người tiêu dùng chuyển 10% ngân sách chi tiêu hàng năm của họ từ các doanh nghiệp ngoài địa phương (chủ yếu là mua hàng trực tuyến) đến các doanh nghiệp địa phương với mục tiêu xây dựng nền kinh tế địa phương ngày càng vững mạnh. Trọng tâm là thay đổi hành vi mua hàng tại địa phương và hợp nhất khách hàng địa phương và các doanh nghiệp nhỏ địa phương thông qua các chiến dịch giáo dục sáng tạo, với mục đích giảm thiểu rò rỉ, phát triển lực lượng lao động địa phương và cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua luân chuyển doanh thu địa phương bằng hiệu ứng cấp số nhân.

  • Mỗi làng một sản phẩm

 

Sáng kiến này bắt đầu vào năm 2013 bởi một nhóm từ Đại học Guam. Nhóm đã thu thập dữ liệu để phát triển các cụm nông nghiệp của từng ngôi làng trong số mười chín ngôi làng của Guam và sử dụng thông tin này để khuyến khích cư dân làng tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng.

Bắt nguồn từ Nhật Bản và đã được chấp nhận trên toàn cầu, được thực hiện để người dân có thể hưởng lợi kinh tế từ ngành du lịch bằng cách xây dựng mối liên kết với các nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các hoạt động thương mại liên quan đến các sản phẩm đặc trưng của mỗi làng.

Sáng kiến này tương đối đơn giản và dễ hiểu, hấp dẫn đối với các nhà hoạch định chính sách và các thành viên cộng đồng. Mỗi làng một sản phẩm liên quan đến ba nguyên tắc hướng dẫn: (1) Địa phương nhưng toàn cầu — Tạo ra các sản phẩm được chấp nhận trên toàn cầu thể hiện niềm tự hào về văn hóa địa phương; (2) Tự lực và Sáng tạo – Hiện thực hóa Mỗi làng một sản phẩm thông qua các hành động độc lập tận dụng tiềm năng của khu vực; (3) Phát triển nguồn nhân lực — Bồi dưỡng những người có tinh thần thử thách và sáng tạo.

  • Local First Guam

 

Là một phần tiếp theo của sáng kiến ​​Mua hàng địa phương, sáng kiến Local First Guam là một nền tảng website được phát triển để giúp cư dân trên đảo xác định các doanh nghiệp có trụ sở tại địa phương, thiết kế theo văn hoá địa phương để tạo nét riêng cho cộng động doanh nghiệp cũng như cư dân trên đảo. Local First Guam là từ khoá chính để tiếp khách hàng có thể tiếp cận Guam thông qua các nền tảng kỹ thuật số để mua hàng trên đảo được dễ dàng hơn. Tiền thuế từ doanh thu của các loại hàng hoá này sẽ được nộp vào một cổng của chính phủ, tránh việc thất thoát thuế cho tất cả mặt hàng kinh doanh tại đảo.

1.2.2 Giải pháp Nhà Xanh: thực hành KTTH Khách sạn Danish, đảo Bornholm, Đan Mạch

Green Solution House (GSH) là một trung tâm hội nghị và khách sạn 4 sao nhỏ của Đan Mạch với 20 nhân viên và 92 phòng, được thành lập vào năm 2009. GSH là một tòa nhà khách sạn được tân trang lại nhẹ nhàng với các trang thiết bị hội nghị mới được xây dựng và một mảng xanh lớn mới xây.  Khách sạn dựa trên cách tiếp cận tổng thể về tính bền vững và tính tuần hoàn, được tích hợp trong hầu hết các khía cạnh hoạt động của mình. Các sáng kiến ​​về môi trường bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau về chỗ ở, thực phẩm, năng lượng và nguồn nước của các dịch vụ khách sạn.

Khách sạn xác định mình là một ‘phòng thí nghiệm sống’ không chỉ tiếp nhận các công nghệ xanh mới mà còn tìm cách chứng minh những phát triển mới nhất về công nghệ, tổ chức và các bước phát triển bền vững và tuần hoàn khác trong ngành xây dựng. Điều này một phần đạt được thông qua mô hình kinh doanh tái tạo, theo đó tiền thu được từ khách sạn và trung tâm hội nghị được chuyển vào tài trợ cho việc tích hợp liên tục các giải pháp mới và đánh giá các hệ thống và sản phẩm đã được cài đặt. Theo nghĩa này, GSH là một sản phẩm chứng minh khả năng duy trì tiên tiến và các giải pháp tuần hoàn trong lĩnh vực khách sạn.

Do đó, hồ sơ môi trường là một điểm bán hàng cốt lõi của khách sạn và không gian hội nghị được sử dụng để hình dung và ghi lại các giải pháp môi trường khác nhau cho khách. Tổng cộng, GSH đã điều chỉnh 75 ‘giải pháp xanh’ mới hoặc thích ứng bao gồm hệ thống năng lượng và nước tuần hoàn, đồ nội thất cao cấp, thảm, rèm và sơn có thể tái sử dụng, loại bỏ rác thải thực phẩm, nguồn cung cấp thực phẩm và vật liệu xây dựng tại chỗ, và tương tác với cảnh quan xung quanh.

GSH tạo ra năng lượng. Các tế bào năng lượng mặt trời được tích hợp vào các mặt tiền và xi măng tráng men tạo ra điện và một nhà máy nhiệt phân tại chỗ sẽ chuyển đổi chất thải hữu cơ thành điện và nhiệt. Nước nóng bổ sung được tạo ra với một nhà máy nhiệt mặt trời được tích hợp vào cảnh quan. Một hồ bơi 30 năm tuổi đã được cải tạo lại và chuyển đổi thành một hệ thống tích trữ năng lượng cách nhiệt cao cho lượng nhiệt dư thừa. Nhà máy nhiệt mặt trời và nhiệt thừa từ nhà máy nhiệt phân đốt nóng và lưu trữ nước quanh năm, cung cấp hệ thống sưởi cho sàn nhà và nước nóng uống được cho khách sạn. Sản xuất năng lượng và tiêu thụ năng lượng liên quan đến các khu vực xây dựng thông thường được theo dõi và hiển thị. Nếu năng lượng dư thừa được tạo ra, nó sẽ cung cấp cho lưới điện Bornholm.

Nhà máy nhiệt phân tạo ra năng lượng từ thức ăn thừa. Tất cả thức ăn thừa và vật liệu tráng miệng từ nhà hàng của khách sạn được đưa vào một nhà máy nhiệt phân sử dụng chất thải có nguồn gốc carbon. Quá trình nhiệt phân làm nóng chất thải, phá vỡ chất thải để tạo ra khí đốt tự nhiên và than đá. Một lốc xoáy tách khí để lại than sinh học, có giá trị như một chất phụ gia cho các khu vườn. Khí được đốt cháy và tạo ra nhiệt và điện. Nhiệt lượng dư thừa được lưu trữ tại chỗ dưới dạng nước nóng trong bể bơi, được tái sử dụng như một hệ thống lưu trữ năng lượng nhiệt.

Giếng trời tạo năng lượng. Các giếng trời mô-đun VELUX cung cấp các win mô-đun tạo ra chất thải vật liệu tối thiểu trong quá trình sản xuất trong khi quang điện tích hợp tạo ra năng lượng. Là một lựa chọn đặc biệt cho Ngôi nhà Giải pháp Xanh, một phần ba cửa sổ trần mô-đun đã được trang bị pho-tovoltaics tích hợp. Các tế bào sản xuất điện tương đương với lượng điện cần thiết cho hai ngôi nhà mỗi năm. Có 196 giếng trời mô-đun VELUX tại Green Solution House, 68 trong số đó có các ô PV tích hợp. 98 m2 quang điện sản xuất khoảng 7,077 kWh mỗi năm.

Chu trình nước – Lọc nước sinh học. Nước từ bồn rửa và nhà vệ sinh trong tòa nhà chính được thu gom và chảy qua các giai đoạn lọc khí, làm trong và lọc sinh học để có thể tái sử dụng tại chỗ. Hai lá phổi trái đất trong Công viên Dấu chân Xanh loại bỏ khí có mùi. Các giai đoạn đầu tiên của quá trình thanh lọc được ẩn dưới mặt đất, sau đó hệ thống được hỗ trợ bởi ánh sáng mặt trời và đèn LED. Tại đây, nước chảy qua các ống tảo hấp thụ CO2 và tiếp tục quá trình làm sạch nước. Có thể lọc 500 lít nước mỗi ngày. Nước tinh khiết được sử dụng để tưới vườn. Mục đích là để đóng vòng lặp và sử dụng nước này cho các nhà vệ sinh của quán rượu; tuy nhiên, điều này hiện không được hỗ trợ bởi luật xây dựng. Khách sạn đã xin phép hoạt động như một phòng thí nghiệm. liên quan đến việc tái sử dụng nước thải và các vòng tuần hoàn khép kín.

Không khí sạch – Vật liệu hoạt động. Một số yếu tố đã được thêm vào để cải thiện môi trường trong nhà. Điều này bao gồm thảm trải sàn hấp thụ bụi bẩn, tấm thạch cao phủ trên tường để làm sạch formaldehyde, màng mái che và làm trung hòa các hạt ô nhiễm từ giao thông.

Nội thất cao cấp – Vải Gabriel. Trong quá trình tân trang lại GSH, mô hình tuần hoàn lâu năm đã được áp dụng cho đồ nội thất, có nghĩa là phần lớn đồ nội thất hiện có từ khách sạn ban đầu vẫn giữ nguyên vị trí và được bọc lại bằng các loại vải thân thiện với môi trường của Gabriel’s.

Khí hậu trong nhà thông minh – Ứng dụng phòng thông minh. GSH đang thử nghiệm với một số lượng nhỏ ‘phòng thông minh’ nơi ứng dụng di động được xây dựng tùy chỉnh theo dõi mức tiêu thụ tài nguyên và kiểm soát môi trường trong nhà. Năng lượng, ánh sáng, không khí và nước là bốn chủ đề mà phản hồi trực tiếp được cung cấp cho khách, giúp thông báo hành vi bằng cách nâng cao nhận thức ở cấp độ cá nhân. Khách có thể thu thập dữ liệu, thông báo cho họ khi có năng lượng hoặc nhiệt có tác động thấp để tiêu thụ. Thử nghiệm giám sát cách thông tin đó có thể đưa ra quyết định của khách về việc sử dụng năng lượng và các nguồn tài nguyên khác.

1.2.3 Điển cứu: Quản lý chuỗi cung ứng KTTH tại khách sạn Martin, Bỉ

Martin là một chuỗi khách sạn của Bỉ. Các sáng kiến ​​về môi trường của họ bao gồm chỗ ở, nhà hàng, năng lượng và nước. Martin có 14 khách sạn tại 9 thành phố ở Bỉ. Các sáng kiến ​​này được áp dụng cho tất cả các khách sạn, nhưng một số khách sạn đang tiến xa hơn trong việc triển khai các sản phẩm KTTH. Martin kết nối các nỗ lực vì môi trường của họ với khẩu hiệu “Ngày mai cần ngày hôm nay”. Các sáng kiến ​​của họ chủ yếu là một chương trình giảm thiểu chất thải và năng lượng nhằm mục đích thực hành tuần hoàn nguồn tài nguyên và loại bỏ hoàn toàn chất thải. Công ty hợp tác với các nhà cung cấp của mình trong quá trình chuyển đổi này.

 

Xử lý chất thải tập trung vào việc phân loại các loại chất thải khác nhau để tăng giá trị tái sử dụng của chúng. Một ví dụ là việc tách và thu gom các loại dầu đã qua sử dụng trong nhà bếp. Một sáng kiến ​​như vậy phụ thuộc vào các cộng tác viên chuyên gia địa phương và việc họ xử lý thêm từng vật liệu để tái sử dụng.

 

Theo báo cáo môi trường của họ, Martin tương tác với năm cộng tác viên để xử lý các loại chất thải khác nhau. Ví dụ: Recupel (www.recupel.be) xử lý tất cả rác thải điện tử và đảm bảo rằng các sản phẩm được tái sử dụng một cách lý tưởng hoặc nếu không thể, hãy tháo dỡ chúng và thu hồi nguồn nguyên liệu thô này. Theo luật của Bỉ quy định, các nhà bán lẻ điện tử phải thu hồi lại các thiết bị điện tử cũ và xử lý việc tái chế của chúng. Do đó, đây cũng là một ví dụ cho thấy việc ban hành luật pháp tương đối đơn giản nhưng có thể tạo ra những thay đổi đáng kể.

 

Các khách sạn Martin ’làm việc với các nhà cung cấp của họ để đạt được các mục tiêu về môi trường. Thông qua trọng tâm này, sự hợp tác với các nhà cung cấp tạo ra nhiều sáng kiến ​​hơn có thể, và trọng tâm về tính bền vững ban đầu đang dần mở rộng sang các chính sách KTTH.

 

Công ty gần đây đã bắt đầu làm việc với Desso, một nhà cung cấp thảm có thể tái chế, để có thể chỉ thay đổi các bộ phận của thảm khi gạch hoặc phần được sử dụng nhiều nhất bị mòn. Do đó, làm việc với chuỗi cung ứng thường là một bước cần thiết để chuyển từ sản phẩm tuyến tính sang sản phẩm tuần hoàn. Trong trường hợp này, sự hợp tác có nghĩa là tấm thảm trở thành cả hai loại mô-đun (để các bộ phận riêng lẻ có thể được trao đổi) và mối quan hệ với nhà cung cấp sẽ trở thành một mối quan hệ liên tục vì sẽ cần đến những tấm gạch mới và những tấm cũ được tái chế. Martin cũng hợp tác với các dịch vụ cung cấp dịch vụ giặt là để cho thuê bộ khăn trải giường và bao gồm dịch vụ giặt là thân thiện với môi trường trong hợp đồng thuê. Thay vì giá mua, tổng chi phí sở hữu được xem xét.

 

Các sáng kiến ​​hiện tại chủ yếu là tự sản xuất. Tuy nhiên, khi các sáng kiến ​​phát triển từ tính bền vững hơn tập trung vào các mô hình kinh doanh tuần hoàn, thì sự phụ thuộc vào các tác nhân trong chuỗi cung ứng sẽ tăng lên. Đây là ví dụ trường hợp của các nhà cung cấp vải lanh và thảm sử dụng mô hình nôi-to-nôi. Các sáng kiến ​​khác trong tương lai phụ thuộc vào phân tầng từ các khu vực bên ngoài, ví dụ: trong việc chuyển đổi đội xe của công ty sang mô hình kinh tế tuần hoàn, thay vì mua xe chạy bằng nhiên liệu hóa thạch.

 

Chuỗi khách sạn là nơi trưng bày để thực hiện các mục tiêu và biện pháp giảm thiểu đầy tham vọng trong một chuỗi khách sạn quy mô trung bình (13 khách sạn), đồng thời để lựa chọn cẩn thận các nhà cung cấp và hợp tác với họ trong một thời gian dài hơn để tạo ra sự thay đổi đáng kể. Martin đã nhận được giải thưởng EMAS 2017. Họ cũng tận dụng hoạt động đánh giá bên ngoài trong Hệ thống Quản lý Môi trường của mình.

 

1.3. Lợi thế cạnh tranh của điểm đến Côn Đảo

 

Ngành du lịch nổi bật với khả năng tăng trưởng to lớn trên quy mô toàn cầu và giữ một vai trò liên quan vừa là công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh vừa là động lực phát triển kinh tế của địa phương có ảnh hưởng đến phạm vi trong và ngoài nước. Nghiên cứu này không chỉ bắt nguồn từ tác động cấp số nhân của nó mà còn cả những cơ hội dễ nhận biết trong phạm vi giữa các khu vực về tăng trưởng và thịnh vượng.

Mục tiêu của nghiên cứu này bao gồm đánh giá khả năng cạnh tranh của điểm đến Côn Đảo và các khu vực lân cận trong và ngoài nước. Chúng tôi đã sử dụng dữ liệu sơ cấp (mẫu gồm …..), thông qua bảng câu hỏi nhằm vào các bên có liên quan đến phát triển kinh tế địa phương có các hoạt động đặc trưng về du lịch. Thông qua việc áp dụng Mô hình Kim cương và 5 áp lực cạnh tranh của Porter, chúng tôi phân tích các mối quan hệ giữa các biến số quyết định đến khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch và đưa ra các nhận định và khuyến nghị cho Côn Đảo đảm bảo đáp ứng yêu cầu và mục tiêu phát triển du lịch theo mô hình kinh tế tuần hoàn, để tái tạo các nguồn lực của địa phương làm nền tảng để phát triển bền vững.

1.3.1      Lợi thế cạnh tranh nội lực của điểm đến Côn đảo bằng Mô hình Kim Cương của Michael Porter

 

  1. Năng lực cạnh tranh của điểm đến Côn đảo theo mô hình kim cương của Michael Porter được nghiên cứu trên 4 trụ cột.
  • Nền tảng cho chiến lược cạnh tranh của điểm đến Côn Đảo
  • Giảm thiểu các rào cản/cạnh tranh nội bộ giữa các bên có liên quan đến du lịch
  • Tổ chức các đơn vị quản lý nhà nuớc theo phân nhóm/ngành hỗ trợ du lịch
  • Thu hút đầu tư nước ngoài bằng chính sách kêu gọi đầu tư hấp dẫn vào các phân ngành dịch vụ du lịch như cơ sở lưu trú, dịch vụ ăn uống, khu vui chơi giải trí, các dịch vụ lữ hành, vận tải, hạ tầng du lịch.
  • Thúc đẩy xuất khẩu tại chỗ bằng các sản phẩm du lịch đặc thù của Côn Đảo, khả năng cân bằng giữa việc xác định thị trường mục tiêu và sức chứa của điểm đến, và chiến lược xây dựng thương hiệu và truyền thông thương hiệu điểm đến Côn Đảo.
  • Điều kiện về nhu cầu
  • Xây dựng các tiêu chuẩn quy định nhằm ủng hộ đổi mới sáng tạo cho các phân ngành du lịch như tiêu chuẩn về đầu tư bền vững cơ sở lưu trú, các tiêu chuẩn của Mục tiêu số 14 về Bảo vệ sự sống dưới nước thuộc khuôn khổ 17 Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hiệp quốc SDGs khi đầu tư hạ tầng du lịch sát bờ biển, các tiêu chuẩn về đầu tư
  • Cấp kinh phí cho các cơ quan đánh giá chất lượng độc lập cho hàng hóa và dịch vụ theo phân ngành dịch vụ của du lịch
  • Đóng vai trò là người mua hàng hóa & dịch vụ tinh vi

 

 

  • Các ngành hỗ trợ liên quan
  • Tổ chức và phát triển mạng lưới, chi hội cho các nhóm ngành dịch vụ bên trong và các mối quan hệ chéo giữa các phân ngành của ngành du lịch Côn Đảo.
  • Khuyến khích các phân ngành của du lịch thu hút các nhà cung cấp nước ngoài
  • Thành lập và tổ chức khu mua sắm chuyên nghiệp nhằm thúc đẩy thương mại đặc sản địa phương như khu ẩm thực, khu hàng thủ công mỹ nghệ, v.v
  • Điều kiện đầu vào để phát triển du lịch Côn Đảo
  • Thành lập cơ sở/trung tâm đào tạo nghề du lịch
  • Thúc đẩy và tạo động lực thực các nghiên cứu cho ngành du lịch
  • Hỗ trợ thu thập thông tin theo cụm cụ thể
  • Tăng cường cơ sở hạ tầng chuyên biệt

 

Từ cơ sở lý thuyết năng lực cạnh tranh theo mô hình kim cương của Michael Porter áp dụng cho điểm đến Côn Đảo, chúng tôi đã phân loại 60 tiêu chí cụ thể (xem bảng tiêu chí). Sự tương quan của các chỉ số sẽ được phân tích trên 5 nhóm ảnh hưởng đến sự phát triển của du lịch Côn đảo bao gồm:

  • nhóm Chính sách của Chính phủ,
  • nhóm đo lường mức độ hài lòng của các điều kiện cung và cầu,
  • nhóm các ngành liên quan và hỗ trợ,
  • nhóm nguồn lực và sự hợp tác các nguồn lực
  • nhóm phương pháp mở rộng mạng lưới và nghiên cứu phát triển

 

Các tiêu chí này được xếp theo thứ tự từ 1-5. Trong đó,

  • 1: không tốt;
  • 2: chấp nhận được;
  • 3: khá tốt;
  • 4: tốt;
  • 5: Hoàn hảo

 

Bảng 60 tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của điểm đến Côn Đảo

  1. Có cơ sở lưu trú chất lượng tốt
  2. Có đa dạng các loại cơ sở lưu trú
  3. Có mối quan hệ về giá cả tương ứng chất lượng lưu trú tốt
  4. Điểm đến có các tiêu chuẩn tiếp cận phương tiện giao thông phù hợp
  5. Giao thông du lịch địa phương hiệu quả
  6. Giao thông du lịch địa phương có chất lượng tốt
  7. Dịch vụ nhà hàng đáp ứng nhu cầu của các luồng du lịch địa phương
  8. Có đầy đủ các dịch vụ giải trí đáp ứng nhu cầu du lịch
  9. Nói chung, có đủ các công ty hỗ trợ để đáp ứng mức độ nhu cầu du lịch (ví dụ: quán bar, nhà hàng, khách sạn, đại lý du lịch, v.v.)
  10. Các công ty du lịch tổ chức các chương trình văn hóa đảm bảo sự hài lòng của du khách
  11. Chất lượng chung của việc tiếp cận giao thông và cơ sở hạ tầng là tốt
  12. Các công ty du lịch thường hành động tuân theo các nguyên tắc đạo đức kinh doanh
  13. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của ngành tốt
  14. Có đủ các chuyên gia chuyên sâu trong lĩnh vực này
  15. Có chất lượng cuộc sống cơ bản để dễ dàng giữ chân nhân viên
  16. Các nhà quản lý công ty du lịch là những người có năng lực
  17. Luật lao động điều chỉnh lĩnh vực hoạt động chứng tỏ động lực thúc đẩy người lao động
  18. Dễ dàng có được nguồn tài chính cho lĩnh vực này
  19. Có thể tiếp cận được các chi phí đầu tư cần thiết để khởi động các hoạt động
  20. Các tiêu chuẩn ‘Làm sạch’ / Vệ sinh là tốt
  21. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên được bảo tồn hợp lý
  22. Các tài nguyên văn hóa lịch sử được bảo tồn tốt
  23. Các công ty công khai chia sẻ thông tin
  24. Có sự hợp tác giữa các công ty khu vực du lịch công và tư nhân
  25. Vị trí của Côn Đảo/công ty góp phần vào việc đổi mới hoạt động kinh doanh
  26. Mối quan hệ giữa các đối thủ cạnh tranh được đặc trưng bởi sự hợp tác
  27. Khu vực an toàn cho khách du lịch
  28. Khách du lịch đang có nhu cầu trải nghiệm Côn Đảo
  29. Trình độ học vấn của khách du lịch ảnh hưởng đến sự lựa chọn điểm đến du lịch của họ
  30. Khách du lịch thường công nhận đây là một điểm đến chất lượng
  31. Có một mối quan tâm về việc xác định liệu khách du lịch có quay trở lại hay không
  32. Điều quan trọng là phải tìm hiểu ý kiến ​​của khách hàng về điểm đến du lịch
  33. Công ty góp phần phát triển du lịch Côn Đảo
  34. Sự cạnh tranh rất gay gắt đối với công ty tại địa phương
  35. Có nhiều công ty trong lĩnh vực hoạt động này
  36. Đổi mới là quan trọng đối với thành công của công ty/ điểm đến
  37. Sự khác biệt trong các sản phẩm và dịch vụ được bán là quan trọng
  38. Chính phủ thúc đẩy phát triển du lịch Côn Đảo
  39. Có rất nhiều sự hỗ trợ của chính quyền địa phương đối với đầu tư vào đổi mới và phát triển
  40. Các chính sách của chính quyền địa phương ảnh hưởng đến doanh nghiệp là phù hợp
  41. Các chính sách của chính quyền địa phương hỗ trợ tăng trưởng du lịch
  42. Chính quyền địa phương khuyến khích đầu tư du lịch
  43. Nhà nước đã đầu tư vào các phương tiện tiếp cận điểm đến
  44. Nhà nước đã thực hiện các biện pháp an ninh chống khủng bố và / hoặc tội phạm
  45. Nhà nước đã tăng cường phục hồi và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên, lịch sử và văn hóa
  46. Cải thiện cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông
  47. Kích hoạt quan hệ đối tác giữa các cơ quan chính phủ, các tổ chức của ngành và các trường đào tạo về du lịch và các ngành đào tạo có liên quan
  48. Thúc đẩy giao thông và các cơ sở hạ tầng vật chất khác
  49. Thúc đẩy các chương trình giáo dục và đào tạo chuyên biệt để nâng cao kỹ năng và khả năng của nhân viên
  50. Hỗ trợ khởi nghiệp tiếp cận vốn đầu tư
  51. Cải cách pháp luật có lợi cho ngành
  52. Tăng cường tài trợ nghiên cứu
  53. Thu hút các nhà đầu tư mới
  54. Đến năm 2025, ngăn chặn và giảm thiểu đáng kể ô nhiễm môi trường biển các loại, đặc biệt là từ các hoạt động trên đất liền, bao gồm các mảnh vụn biển và ô nhiễm chất dinh dưỡng
  55. Rà soát lại kết quả năm 2020, quản lý và bảo vệ bền vững các hệ sinh thái biển và ven biển để tránh các tác động tiêu cực đáng kể, bao gồm bằng cách tăng cường khả năng phục hồi của chúng và hành động để phục hồi chúng nhằm đạt được các đại dương trong lành và hiệu quả
  56. Giảm thiểu và giải quyết các tác động của axit hóa đại dương, bao gồm cả việc tăng cường hợp tác khoa học ở tất cả các cấp
  57. Rà soát lại kết quả năm 2020, điều chỉnh hiệu quả việc thu hoạch và chấm dứt hoạt động đánh bắt quá mức, bất hợp pháp, không báo cáo và không được kiểm soát cũng như các hoạt động đánh bắt hủy diệt và thực hiện các kế hoạch quản lý dựa trên cơ sở khoa học, nhằm khôi phục nguồn cá trong thời gian ngắn nhất khả thi, ít nhất là ở mức có thể sản xuất bền vững tối đa năng suất được xác định bởi các đặc điểm sinh học của chúng
  58. Rà soát lại kết quả năm 2020, bảo tồn ít nhất 10% các khu vực biển và ven biển, phù hợp với luật pháp quốc gia và quốc tế và dựa trên thông tin khoa học tốt nhất hiện có
  59. Thực hiện cấm một số hình thức trợ cấp thủy sản góp phần gây ra tình trạng dư thừa năng suất và đánh bắt quá mức, loại bỏ các hình thức trợ cấp góp phần vào việc đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không được kiểm soát và không áp dụng các hình thức trợ cấp mới như vậy, thừa nhận rằng đối xử đặc biệt và khác biệt phù hợp và hiệu quả cho các đối tượng đang phát triển và kém phát triển các quốc gia nên là một phần không thể thiếu trong đàm phán trợ cấp nghề cá của Tổ chức Thương mại Thế giới
  60. Đến năm 2030, tăng lợi ích kinh tế cho các quốc đảo nhỏ đang phát triển và các quốc gia kém phát triển nhất từ ​​việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, bao gồm thông qua quản lý bền vững nghề cá, nuôi trồng và du lịch
  • Nâng cao kiến ​​thức khoa học, phát triển năng lực nghiên cứu và chuyển giao công nghệ biển, có tính đến các Tiêu chí và Hướng dẫn của Ủy ban Hải dương học Liên Chính phủ về Chuyển giao Công nghệ Biển, nhằm cải thiện sức khỏe đại dương và tăng cường đóng góp của đa dạng sinh học biển vào sự phát triển của các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc đảo nhỏ đang phát triển và các quốc gia kém phát triển nhất
  • Tạo điều kiện cho những người đánh bắt thủ công quy mô nhỏ tiếp cận với các nguồn tài nguyên và thị trường biển
  • Tăng cường bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương và các nguồn tài nguyên của chúng bằng cách thực hiện luật pháp quốc tế như được phản ánh trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển, cung cấp khuôn khổ pháp lý cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương và các nguồn tài nguyên của chúng, như được nhắc lại trong đoạn 158 của “Tương lai chúng ta muốn”

 

  1. Phân tích và tổng hợp các phát hiện từ dữ liệu thứ cấp

 

1.3.2      Phân tích lợi thế cạnh tranh ngoại vi bằng Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Poster.

Trong bối cảnh môi trường kinh doanh đầy thách thức như hiện nay, việc xác định và phân tích các vấn đề trong việc triển khai các giải pháp sáng tạo nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch tại hiện tại và cho tương lai là rất quan trọng. Việc đánh giá năng lực cạnh tranh thúc đẩy các quy trình xử lý vốn nhân lực với các động lực sáng tạo, chuyển giao và áp dụng kiến ​​thức để tăng khả năng đạt được lợi thế cạnh tranh so với các điểm đến và doanh nghiệp khác nhau trong ngành du lịch. Lợi thế cạnh tranh là đạt đến vị trí cao nhất trong ngành du lịch so với các đối thủ cạnh tranh bằng tính chất của đổi mới và chất lượng của sáng tạo.

 

Phần nghiên cứu này tập trung vào năm áp lực cạnh tranh của Michael Porter trong việc đạt được lợi thế cạnh tranh nhằm nâng cao kiến ​​thức các bên cùng tham gia vào phát triển du lịch Côn Đảo và các dịch vụ sáng tạo trong ngành du lịch của địa phương.

 

Ngày nay, thế giới đã bắt đầu phát triển với tốc độ ngày càng cao và bất ngờ do hàng loạt các đổi mới công nghệ đã được xuất hiện và thực hiện trong suốt những thập kỷ qua. Để tiến lên cùng với thế giới không ngừng phát triển, vì vậy ngành du lịch cũng không ngoại lệ. Ngành du lịch nên chuyển hướng các thủ tục và cơ chế kinh doanh thông thường của họ sang các thủ tục và cơ chế của ngành du lịch dựa trên công nghệ hiện đại để đáp ứng nhu cầu năng động của toàn cầu (Omotayo, 2015).

 

  1. Đặc tính du lịch riêng của Điểm đến Côn Đảo

Chất riêng từ thiết kế của tự nhiên cùng giá trị lịch sử đã tạo nét khác biệt cho Côn Đảo đó là vùng biển – rừng – núi của Vườn Quốc Gia còn thuần khiết gắn với đặc tính văn hoá – lịch sử của các vị anh hùng dân tộc và phong cách sống của cư dân miền hải đảo.

Theo khảo sát thực tế thì Côn Đảo có hệ sinh thái Sinh thái:

  • Vườn Quốc gia Côn đảo được thành lập từ năm 1993 trên cơ sở chuyển từ Khu rừng cấm Côn Đảo với diện tích 6.000 ha trên cạn và 14.000 ha vùng nước, bao trùm 14 hòn đảo (không bao gồm hòn Trứng Lớn và hòn Trứng Nhỏ)
  • Về thực vật, người ta thống kê được 882 loài thực vật rừng bậc cao thuộc 562 chi, 161 họ, trong đó có 371 loài thân gỗ, 30 loài phong lan, 103 loài dây leo, 202 loài thảo mộc,…. Về động vật rừng, hiện đã biết 144 loài bao gồm 28 loài thú, 69 loài chim, 39 loài bò sát,… Côn Đảo có loài Thạch Sùng Côn Đảo đặc hữu.
  • Vùng biển của vườn quốc gia sở hữu 1.383 loài sinh vật biển, trong đó có 127 loài rong biển, 11 loài cỏ biển, 157 loài thực vật phù du, 115 loài động vật phù du, 202 loài cá, 8 loài thú và bò sát biển,… Các rạn san hô nơi đây do 219 loài hợp thành; độ phủ trung bình là 42,6 %. Côn Đảo không chỉ là vùng có nhiều rùa biển nhất nước Việt Nam mà còn là nơi duy nhất ở Việt Nam còn tồn tại một quần thể bò biển có cuộc sống không tách rời các thảm cỏ biển

 

Bên cạnh đó, Côn Đảo đã có sẳn cơ sở hạ tầng cơ bản thuận tiện cho các hoạt động giao thương bằng đường tàu biển và hàng không. Viễn thông cũng được phủ sóng điện thoại và chất lượng sử dụng rất tốt. Kết nối Internet tốc độ cao ADSL, đảm bảo thông tin liên lạc. Côn Đảo cũng có đài phát thanh và truyền hình.

Về cơ cấu kinh tế của Côn Đảo. Ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng cao nhất (71,63%) trong cơ cấu kinh tế của huyện, kế đó là công nghiệp (20,20%) và cuối cùng là nông nghiệp (8,27%). GDP bình quân đầu người là 965 đô la Mỹ. Hàng năm ngành dịch vụ tăng trưởng với nhịp độ khoảng 33,7%; số khách du lịch đến Côn Đảo đạt khoảng 200.000 đến 250.000 người/năm.

Từ các đặc tính nền tảng hiện có, việc xây dựng Côn Đảo trở thành Đảo du lịch dựa vào thiên nhiên theo mô hình phát triển KTTH sẽ là tiền đề cho quá trình đưa Côn Đảo phát triển và phát triển bền vững.

 

  1. Phân tích 5 áp lực cạnh tranh của Michael Poster cho điểm đến Côn Đảo

Ngành Du lịch có một môi trường kinh doanh độc đáo, ảnh hưởng đến tất cả các đối thủ cạnh tranh. Theo Porter, có thể xác định năm yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến ngành liên quan đến cạnh tranh đó là đối thủ cạnh tranh hiện tại, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, nhà cung ứng, khách hàng và sản phẩm thay thế.

Trong bối cảnh Côn Đảo, năm áp lực cạnh tranh của điểm đến này bao gồm: (1) Các điểm đến khác có cùng đặc tính du lịch của Côn Đảo đang tham gia thị trường du lịch. (2 )Các điểm đến tiềm ẩn khác chuẩn bị tham gia thị trường du lịch. (3) Năng lực quản trị điểm đến tại địa phương (chuỗi giá trị cung ứng ngành du lịch). (4) Năng lực thương lượng của các nhà đầu tư, người mua (đơn vị lữ hành). (5) Sản phẩm du lịch thay thế.

  • Các điểm đến khác có cùng đặc tính du lịch của Côn Đảo đang tham gia thị trường du lịch.

 

  1. Về vị trí thị trường nội địa của Việt Nam

 

Việt Nam nằm ở rìa phía đông bán đảo Đông Dương, trung tâm khu vực Đông Nam Á. Diện tích Việt Nam là 331.212 km². Biên giới Việt Nam trên đất liền dài 4.639 km, giáp với vịnh Thái Lan ở phía tây nam, vịnh Bắc Bộ và biển Đông ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc, Lào và Campuchia ở phía tây. Hình dáng Việt Nam trên bản đồ có dạng hình chữ S, khoảng cách từ bắc tới nam (theo đường chim bay) là 1.650 km và vị trí hẹp nhất theo chiều đông sang tây nằm ở Đồng Hới (Quảng Bình) với chưa đầy 50 km. Đường bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo. Ngoài vùng nội thủy, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và cuối cùng là thềm lục địa. Vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km² biển Đông.

Việt Nam có 28 tỉnh tiếp giáp với bờ biển tính từ cực đông Thành phố Móng Cái đến cực tây Thành phố Hà Tiên có chiều dài là 3260 km (tính cả chiều dài bờ biển). Bao gồm 28 tỉnh, thành nằm dọc theo duyên hải từ tỉnh Quảng Ninh đến tỉnh Kiên Giang.

  • Các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Bình giáp vịnh Bắc Bộ
  • Các tỉnh từ Quảng Trị đến Cà Mau giáp vùng chính của biển Đông
  • Tỉnh Kiên Giang và phía tây tỉnh Cà Mau giáp vịnh Thái Lan.

 

Dưới đây là danh sách các tỉnh thành của Việt Nam có đường bờ biển giáp với biển Đông và Vịnh Thái Lan.

 

Stt Tên tỉnh thành Bờ biển (km) Tên địa phương
giáp biển
01 Quảng Ninh 250 Móng CáiHải HàĐầm HàTiên YênCô TôVân ĐồnCẩm PhảHạ LongQuảng Yên.
02 Tp. Hải Phòng 125 Cát HảiHải AnDương KinhĐồ SơnKiến ThụyTiên LãngBạch Long Vĩ.
03 Thái Bình 52 Thái ThụyTiền Hải.
04 Nam Định 72 Giao ThủyHải HậuNghĩa Hưng.
05 Ninh Bình 16 Kim Sơn,Yên Khánh
06 Thanh Hóa 102 Nga SơnHậu LộcHoằng HóaSầm SơnQuảng XươngNghi Sơn.
07 Nghệ An 82 Hoàng MaiQuỳnh LưuDiễn ChâuNghi LộcCửa Lò.
08 Hà Tĩnh 137 Nghi XuânLộc HàThạch HàCẩm Xuyên, H. Kỳ Anh, Tx. Kỳ Anh.
09 Quảng Bình 126 Quảng TrạchBa ĐồnBố TrạchĐồng HớiLệ ThủyQuảng Ninh.
10 Quảng Trị 75 Vĩnh LinhGio LinhTriệu PhongHải LăngCồn Cỏ.
11 Thừa Thiên Huế 120 Phong ĐiềnQuảng ĐiềnHuếPhú VangPhú Lộc.
12 Tp. Đà Nẵng 37 Liên ChiểuThanh KhêHải ChâuSơn TràNgũ Hành SơnHoàng Sa.
13 Quảng Nam 125 Điện BànHội AnDuy XuyênThăng BìnhTam KỳNúi Thành.
14 Quảng Ngãi 130 Bình SơnQuảng NgãiMộ ĐứcĐức PhổLý Sơn.
15 Bình Định 134 Hoài NhơnPhù MỹPhù CátQuy Nhơn.
16 Phú Yên 182 Sông CầuTuy AnTuy HòaĐông Hòa.
17 Khánh Hòa 370 Vạn NinhNinh HòaNha TrangCam LâmCam RanhTrường Sa.
18 Ninh Thuận 105 Thuận BắcNinh HảiPhan Rang – Tháp ChàmNinh PhướcThuận Nam.
19 Bình Thuận 192 Tuy PhongBắc BìnhPhan ThiếtHàm Thuận NamLa GiHàm TânPhú Quý.
20 Bà Rịa – Vũng Tàu 72 Xuyên MộcĐất ĐỏLong ĐiềnPhú MỹVũng TàuCôn Đảo.
21 Tp. Hồ Chí Minh 17 Cần Giờ.
22 Tiền Giang 32 Gò Công ĐôngTân Phú Đông.
23 Bến Tre 60 Bình ĐạiBa TriThạnh Phú.
24 Trà Vinh 65 Châu ThànhCầu Ngang, H. Duyên Hải, Tx. Duyên Hải.
25 Sóc Trăng 72 Cù Lao DungTrần ĐềVĩnh Châu.
26 Bạc Liêu 56 Tp. Bạc LiêuHòa BìnhĐông Hải.
27 Cà Mau 254 Đầm DơiNăm CănNgọc HiểnPhú TânTrần Văn ThờiU Minh.
28 Kiên Giang 200 An MinhAn BiênRạch GiáHòn ĐấtKiên LươngHà TiênKiên HảiPhú Quốc.

 

Việt Nam12 đơn vị hành chính cấp huyện có đường bờ biển chung quanh được gọi là huyện đảo và thành phố đảo thuộc về 9 tỉnh và thành phố. Các huyện đảo và thành phố đảo này nằm trong các khu vực vịnh Bắc bộ, vùng chính biển Đông và vịnh Thái Lan.

Dưới đây là danh sách chi tiết về các huyện đảo và thành phố đảo, thứ tự từ Bắc xuống Nam.

 

Stt Tên Huyện đảo Chu vi
(km)
Diện tích
(km²)
Dân số
(người)
Thuộc tỉnh Chú thích
01 Cô Tô 47,30 5.840
(2018)
Quảng Ninh Là một quần đảo với trên 50 hòn đảo lớn nhỏ. Thị trấn Cô Tô (huyện lỵ) nằm ở phía nam đảo Cô Tô, cách Tp Hạ Long trên 70km đường chim bay.
02 Vân Đồn 551,30 52.940
(2018)
Là một quần đảo với khoảng 600 hòn đảo lớn nhỏ. Thị trấn Cái Rồng (huyện lỵ) nằm ở phía tây nam đảo Cái Bầu, cách Tp Hạ Long gần 40 km đường chim bay.
03 Bạch Long Vĩ 6,5 km 1,80 907
(2009)
Hải Phòng Đảo có chiều dài khoảng 3km, chiều rộng khoảng 1,5km, diện tích khoảng 1,8km² khi thuỷ triều lên mức cao nhất và khoảng 3,05km² khi thuỷ triều xuống mức thấp nhất. Cách đảo Hòn Dáu (Q. Đồ Sơn, Hải Phòng) 110km và đảo Hạ Mai (H. Vân Đồn, Quảng Ninh) 70km theo đường chim bay.
04 Cát Hải 345,31 43.187
(2018)
Bao gồm 367 hòn đảo lớn nhỏ thuộc Quần đảo Cát Bàvà đảo Cát Hải hợp thành huyện đảo. Thị trấn Cát Bà (huyện lỵ) nằm ở phía nam đảo Cát Bà, cách trung tâm Tp Hải Phòng 40 km theo đường chim bay.
05 Cồn Cỏ[1] 2,30 500
(2016)
Quảng Trị Là một hòn đảo cách Mũi Lay của bờ biển tỉnh Quảng Trị 27km về hướng đông. Trung tâm hành chính của huyện đảo nằm ở phía nam đảo.
06 Hoàng Sa 305.00 0 Đà Nẵng Là một quần đảo san hô, nằm cách bờ biển Việt Nam 315km (170 hải lý). Quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam, đã bị Trung Quốc xâm chiếm từ năm 1974. Hiện đang là khu vực tranh chấp giữa VN và Trung Quốc nên không có cư dân người Việt.
07 Lý Sơn 9,97 23.000
(2019)
Quảng Ngãi Là một nhóm đảo gồm 3 hòn đảo có tên Cù Lao Ré, Cù Lao Bãi Lớn và hòn Mù Cu. Trung tâm hành chính huyện đảo nằm ở phía nam đảo Cù lao Ré, cách bờ biển xã Bình Hải (H. Bình Sơn, Quảng Ngãi) 25 km.
08 Trường Sa 496 195
(2009)
Khánh Hòa Là một quần đảo san hô, cách bờ biển Cam Ranh khoảng 446,50km (248 hải lý) về hướng đông nam. Quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam, tuy nhiên hiện nay chỉ có một số đảo có người Việt cư ngụ, số đảo còn lại đang có sự tranh chấp với các nước trong khu vực.
09 Phú Quý 17,40 30.971
(2018)
Bình Thuận Là một nhóm đảo gồm 11 đảo, trong đó đảo Cù lao Thu là đảo lớn nhất (dân cư hầu hết cư ngụ ở đảo này) và 10 hòn đảo lớn nhỏ ở chung quanh. Trung tâm hành chính huyện đảo nằm ở phía tây nam đảo Cù lao Thu, cách Tp Phan Thiết 110 km về phía đông.
10 Côn Đảo 76,00 8.360
(2019)
Bà Rịa – Vũng Tàu Là một quần đảo gồm 16 hòn đảo lớn nhỏ, cách bờ biển Vũng Tàu 175km (97 hải lý). Trung tâm hành chính huyện đảo nằm ở phía đông đảo Côn Sơn (đảo lớn nhất trong quần đảo).
11 Kiên Hải 30,00 25.000 Kiên Giang Là một nhóm đảo gồm các đảo Hòn Tre, Hòn Rái và một quần đảo nhỏ Nam Du. Thị trấn Kiên Hải nằm trên đảo Hòn Tre là điểm gần Rạch Giá nhất với khoảng cách 30km và xa nhất là quần đảo Nam Du cách Rạch Giá 117km. Quần đảo này gồm có 21 hòn đảo lớn nhỏ và được chia thành 2 xã Nam Du và An Sơn.

 

Danh sách các Thành phố đảo

Stt Tên Thành phố đảo Chu vi
(km)
Diện tích
(km²)
Dân số
(người)
Thuộc tỉnh Chú thích
1 Phú Quốc 589,23 107.000
(2018)
Kiên Giang Là một quần đảo có tên là quần đảo An Thới gồm 22 hòn đảo lớn nhỏ, đảo Phú Quốc là đảo có diện tích lớn nhất. Phường Dương Đông là huyện lỵ của thành phố đảo nằm ở phía tây đảo Phú Quốc, cách Hà Tiên 45 km về hướng tây và cách Rạch Giá 120 km về hướng tây bắc. Phú Quốc là thành phố đảo đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam.

 

 

Từ vị trí địa lý chung của Việt Nam, hầu hết các điểm đến tại 28 tỉnh đều có khả năng phát triển du lịch biển đảo. Trong số đó, các điểm đến hiện nay đã có sức hấp dẫn về du lịch là 14 tỉnh (50%) bao gồm: Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang.

 

Vị trí cạnh tranh về thị trường lân cận với Côn Đảo tính từ trung tâm kinh tế phía nam Thành phố Hồ Chí Minh được xếp theo mức độ về sức ảnh hưởng để chia sẻ lượt khách bao gồm 9 điểm đến: Cần Giờ, Phú Quốc, Phan ThiếtHàm Thuận NamLa GiHàm TânPhú Quý, Nha Trang, Cam Ranh.

 

Tuy nhiên, trong số 9 điểm đến nêu trên thì Phú Quốc, Nha Trang và Cam Ranh đang bị đưa vào khai thác theo mô hình kinh tế tuyến tính. Điều đó có nghĩa là khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên – thương mại hoá các sản phẩm du lịch bao gồm lưu trú, vui chơi, giải trí – tạo ra chất thải. Hậu quả để lại cho việc khai thác kinh tế du lịch theo mô hình tuyến tính đã tạo ra hệ luỵ về sự xói mòn đất, gây sạc lở khu vực núi, ô nhiễm vùng biển nước thải đen ngòm, hôi thối đổ thẳng ra danh thắng Vịnh Nha Trang.

 

Nguồn: Báo Dân Trí. Nha Trang: Bãi biển bị xé toạc vì cống xả ô nhiễm, du khách xa lánh.

Sự phát triển nóng về đô thị, du lịch đã khiến môi trường sông Dương Đông, Phú Quốc bị ô nhiễm nghiêm trọng và môi trường trên đảo phú Quốc (Kiên Giang) bị ảnh hưởng ngày càng tiêu cực, nước có hiện tượng màu đen, xuất hiện tình trạng cá chết.

  1. Vị trí thị trường quốc tế

 

Việt Nam nằm ở vị trí trung tâm của ba nước Đông Dương (Việt Nam – Cambodia – Lào) và là điểm trung chuyển quốc tế khu vực Đông Nam Á, Châu Á – Thái Bình Dương. Do đó, các điểm đến có cùng đặc tính du lịch biển đảo với Côn Đảo có khả năng chia sẻ lượt khách bao gồm: Silhanoukville (Cambodia), Pattaya (Thái Lan), Bali (Indonesia), Penang (Malaysia), Maldives, Palawan (Phillipines), Mergui (Myanmar), Ishigaki (Nhật Bản).

Đối với thị trường nội địa Việt Nam, 14 điểm đến có đặc tính du lịch biển đảo vẫn chưa được vận hành theo mô hình KTTH.

Đối với thị trường quốc tế, Chính phủ Thái Lan đã mở cửa lại nền kinh tế trong đại dịch với mô hình KTTH, được công bố vào tháng 1/2021 thông qua Mô hình Kinh tế Xanh – Tuần Hoàn – Sinh học (BCG). Trong đó, ngành du lịch Thái Lan có thể hưởng lợi từ chính sách thúc đẩy các thành phố thứ cấp và cộng đồng trở thành điểm du lịch mới. Công nghệ và sự đổi mới sẽ được áp dụng để tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng và nền tảng kỹ thuật số nhằm cải thiện sự thuận tiện và trải nghiệm của khách du lịch, đồng thời thúc đẩy ngành du lịch chất lượng cao. Khoa học và công nghệ sẽ được sử dụng để xác định các hướng dẫn quốc gia về du lịch, ví dụ: năng lực thực hiện, hỗ trợ hệ thống tiêu chuẩn du lịch bền vững và bảo tồn và phục hồi môi trường. Theo khái niệm kinh tế sáng tạo, du lịch có thể được liên kết với các ngành dịch vụ khác để hướng đến các thị trường ngách như du lịch chăm sóc sức khỏe, du lịch ẩm thực, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa và du lịch thể thao.

So với các thị trường du lịch nội địa và quốc tế từ các điểm đến kể trên, Côn Đảo là một điểm đến mới mẻ để bước vào thị trường du lịch bằng một hướng đi bền vững thông qua vận hành mô hình KTTH.

  1. Sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện có trong phân ngành du lịch tại một điểm đến.

 

Sự cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành các phân ngành của  Du lịch bao gồm Giải trí và Khách sạn là rất khốc liệt. Khi khách hàng tiềm năng tìm hiểu trực tuyến thông qua các nền tảng web của địa phương/ cơ sở lưu trú hoặc các đại lý du lịch trực tuyến

(OTA) sẽ làm giảm sự khác biệt giữa các đối thủ cạnh tranh. Khách du lịch hoặc người mua (công ty lữ hành) có xu hướng tìm kiếm giá tốt nhất để có trải nghiệm tốt nhất và xu hướng giảm giá đến mức cạnh tranh. Ngành này có diện tích rộng nên thị trường được mở rộng làm tăng số lượng đối thủ cạnh tranh. Ví dụ, ai đó muốn dành cả ngày ở khu di tích lịch sử có thể dễ dàng chọn một công ty du lịch ở thị trấn gần đó nếu tiện nghi hoặc giá cả thấp. Chi phí biến đổi và chi phí cố định có thể khác nhau ở những khu vực có mức sống đắt đỏ hơn.

  • Các điểm đến tiềm ẩn khác chuẩn bị tham gia thị trường du lịch.

 

Du lịch là một trong những nhu cầu thiết yếu của con nguời. Việc phát triển du lịch tại các vùng đất mới có đặc tính du lịch là một động lực để thúc đẩy kinh tế địa phương. Do đó, các điểm đến tiềm ẩn khác so với Côn Đảo sẽ được quan tâm đến khía cạnh thâm nhập thị trường du lịch, chia sẻ lượt khách và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh đầu tư cũng như các yếu tố phát triển kinh tế du lịch của Côn Đảo.

Như phân tích về mức độ cạnh tranh về vị trí thị trường ở mục (1) Các điểm đến khác có cùng đặc tính du lịch của Côn Đảo đang tham gia thị trường du lịch, 13 tỉnh còn lại có đường bờ biển của Việt Nam có sức ảnh hưởng về phát triển du lịch trong tương lai bao gồm: Thái Bình, Nam Định, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngải, Tiền Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.

Sự xuất hiện những điểm đến tiềm ẩn khác sẽ làm giảm sức cạnh tranh của Côn Đảo về kêu gọi đầu tư hạ tầng phục vụ du lịch trong tương lai nếu địa phương chưa xây dựng chiến lược kêu gọi đầu tư phù hợp.

  • Áp lực của quản trị điểm đến Côn Đảo ( quản trị chuỗi giá trị cung ứng ngành du lịch )

 

Về áp lực cạnh tranh này đòi hỏi hệ thống quản lý nhà nước về du lịch và các ngành có liên quan cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra cho du lịch như ngành nông nghiệp, thương mại, giao thông vận tải, tài nguyên môi trường, khoa học công nghệ, xây dựng, thông tin truyền thông, giáo dục, y tế, an ninh…nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng du lịch đồng bộ về các tiêu chí bền vững.

Ví dụ, khả năng cung cấp lực lượng lao động có chuyên môn nghiệp vụ về du lịch, các chính sách sử dụng nhân tài của địa phương là yếu tố đầu vào bền vững để phát triển du lịch Côn Đảo. Ngoài ra, các sản phẩm nông nghiệp sạch, hữu cơ tại địa phương cũng là điều kiện đầu vào phục vụ cho phân ngành ẩm thực của du lịch. Bên cạnh đó, khuyến khích đội ngũ quản lý ngành du lịch tham gia nhiều sân chơi về đổi mới sáng tạo để đảm bảo đa dạng hoá vòng đời của sản phẩm du lịch tại địa phương.

  • Áp lực từ sự thương lượng của các nhà đầu tư, người mua (đơn vị lữ hành)

 

Đối với điểm đến Côn Đảo thì khái niệm người mua là nhà đâu tư về du lịch. Để quyết định cho một đầu tư mới vào du lịch như cơ sở lưu trú, khu trải nghiệm thiên nhiên, hoặc các dịch vụ du lịch biển đảo, nhà đầu tư cần nghiên cứu về chính sách kêu gọi đầu tư của địa phương như thế nào so với các ưu đãi của các điểm đến khác. Từ đó, họ sẽ tính toán được hạn mức đầu tư, thời gian hoà vốn và khả năng sinh lời từ sản phẩm mà họ đầu tư. Ngoài ra, vị trí của Côn Đảo cũng là lợi thế cạnh tranh để nhà đầu tư xem xét khả năng thu hút lượng khách đến. Bên cạnh đó, nhân lực đối ứng của địa phương trong công tác kêu gọi đầu tư cũng là một yếu tố quyết định cho một suất đầu tư.

Đối với các dịch vụ du lịch sẳn có tại Côn Đảo như hệ thống cơ sở lưu trú, giải trí, khu di tích văn hoá lịch sử, khu mua sắm thì người mua là các đơn vị lữ hành và khách du lịch. Những người mua này ngày càng có nhiều khả năng tận dụng những tiến bộ công nghệ trong các phương tiện giao tiếp như internet để tăng khả năng thương lượng của họ. Do khả năng thương lượng của người tiêu dùng tăng lên, họ đang tìm kiếm các trang web của các doanh nghiệp lưu trú hoặc các dịch vụ khác tại Côn Đảo để có thể thương lượng trực tiếp hoặc tìm ra các ưu đãi khác ngoài chương trình ưu đãi của người bán. Do đó, quy trình này chuyển quyền lực thương lượng sang người dùng cuối như đã được dự đoán bởi mô hình Porter. Đó là sự tự do của người mua để họ có thể ra quyết định mua hay không mua một dịch vụ tại Côn Đảo so với chính sách bán hàng độc đáo của những điểm đến khác.

  • Áp lực từ sản phẩm du lịch thay thế.

 

Tại thời điểm nghiên cứu phát triển du lịch cho điểm đến Côn Đảo, sản phẩm du lịch thay thế được so sánh dựa vào đặc tính tự nhiên của vùng đất này. Do đó, các sản phẩm điểm đến khác có thể thay thế cho Côn Đảo là du lịch sông nước, hoặc du lịch leo núi, hang động hay du lịch đô thị.

Nếu xét về vị trí thị trường, thì khả năng thay thế cho du lịch Côn Đảo là du lịch ở Tiểu vùng Sông Mekong nơi khởi nguồn tour du lịch có vị trí gần với Côn Đảo tính từ trung tâm Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Sản phẩm du lịch này hình thành từ tour ngược dòng Mekong trải dài qua 6 quốc gia từ Đồng Bằng Sông Cửu Long (Việt Nam), Cambodia, Lào, Thái Lan, Myanma và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Đặc biệt hơn là các quốc gia này cũng có các điểm đến với đặc tính biển đảo như đã phân tích ở mục (1) các điểm đến khác có cùng đặc tính du lịch của Côn Đảo đang tham gia thị trường du lịch. Bên cạnh đó, sản phẩm du lịch thay thế của Côn Đảo là du lịch đô thị của Thành phố Hồ Chí Minh nơi mà du khách cũng có cơ hội để trải nghiệm du lịch biển tại Cần Giờ.

Do đó, việc xác định đối tượng khách du lịch để trải nghiệm tại Côn Đảo nên được nghiên cứu sâu về phong cách tiêu dùng của thị trường mục tiêu. Đối tượng khách phải thật sự có nhu cầu khác biệt để họ có thể trở thành khách hàng trung thành với Côn Đảo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN 2: CHIẾN LƯỢC, GIẢI PHÁP VÀ KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH CÔN ĐẢO THEO MÔ HÌNH KINH TẾ TUẦN HOÀN ĐÁP ỨNG MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẾN 2030 VÀ TẦM NHÌN 2050

2.1. ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC

 

Sau khi nhận diện năng lực cạnh tranh thông qua hai công cụ phân tích về Mô hình Kim Cương và 5 Áp lực cạnh tranh của du lịch theo mô hình của Michael Poster, các phân tích và đề xuất ở mục 5.4 là giải pháp hỗ trợ giảm áp lực và tăng cường năng lực cạnh tranh cho Côn Đảo tiến vào sân chơi du lịch toàn cầu – nơi mà các giá trị xã hội bền vững luôn được tôn trọng, giữ gìn và bảo toàn bởi việc xác định đúng những người chơi có cùng một mục tiêu về thực hành bền vững. Đó là lộ trình để Huyện Côn Đảo phát triển kinh tế địa phương theo hướng riêng biệt nhưng vẫn giữ được đặc tính chung của vùng.

Trong vài năm gần đây, ngành du lịch đã được công nhận là một trong những ngành phát triển nhanh nhất trên thế giới. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO), lượng khách du lịch quốc tế tăng 5% trong năm 2018 lên 1,4 tỷ, ngành này tạo ra 1,7 nghìn tỷ đô la Mỹ thu nhập xuất khẩu và UNWTO dự báo lượng khách du lịch quốc tế sẽ đạt 1,8 tỷ vào năm 2030. Do so với quy mô và phạm vi của ngành du lịch, du lịch hiện là một nguồn thu quan trọng của nhiều quốc gia, cả lớn và nhỏ. Trong số các quốc gia nhỏ, các quốc đảo nhỏ biểu hiện một số đặc điểm riêng biệt. Nhiều nghiên cứu khác nhau đã xác định những thuận lợi và khó khăn điển hình của các nền kinh tế đảo nhỏ.

 

Về mặt tích cực, các đảo nhỏ thường được thiên nhiên ban tặng cho vẻ đẹp như nắng, biển, cát và vách đá, và thúc đẩy ngành du lịch là một chiến lược khả thi để tăng trưởng kinh tế ở các nền kinh tế đảo nhỏ. được thiên nhiên ưu đãi với vẻ đẹp như nắng, biển, cát, và vách đá và thúc đẩy ngành du lịch là một chiến lược khả thi để tăng trưởng kinh tế ở các nền kinh tế đảo nhỏ. Ngành du lịch ở nhiều nước đang phát triển (và kém phát triển nhất) là một trong những nguồn kinh tế mũi nhọn, và ở một số nước là nguồn thu ngoại tệ chính; đây là phương án phát triển kinh tế bền vững và khả thi nhất, có tác động tích cực đến việc giảm tỷ lệ đói nghèo.

 

Ở Côn Đảo, ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng cao nhất (71,63%) trong cơ cấu kinh tế của huyện nên ngành du lịch cần đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp các giải pháp bền vững cho cư dân vùng đất, môi trường là điều thu hút khách du lịch, và phát triển kinh tế của đảo. Ở mọi điểm đến, du lịch có khả năng đóng góp vào 17 mục tiêu phát triển bền vững (SGDs) do Đại hội đồng Liên hợp quốc đặt ra vào năm 2015 và dự kiến đạt được vào năm 2030; đặc biệt, du lịch đã được đưa vào làm mục tiêu trong các Mục tiêu 8, 12 và 14, bao gồm các lĩnh vực của Tăng trưởng kinh tế và Việc làm bền vững (8), Sản xuất và tiêu dùng có trách nhiệm (12) và Cuộc sống dưới nước (14).

 

Do hình thức kinh tế du lịch truyền thống được cấu hình theo mô hình kinh tế tuyến tính (tận thu), các điểm đến phải gánh chịu những hậu quả gây tổn hại đến môi trường như đã đề cập ở trên. Khi khách du lịch đến một điểm đến, cho dù đó là trong nước hay quốc tế, trong hầu hết các trường hợp, họ đã tạo ra một lượng khí thải carbon đáng kể từ phương thức vận chuyển của họ. Lượng khí thải liên quan đến giao thông vận tải từ du lịch dự kiến sẽ chiếm 5,3% tổng lượng khí thải CO2 do con người tạo ra vào năm 2030, tăng từ 5% vào năm 2016. Lượng khí thải carbon này sẽ không biến mất từ các tác động tiêu cực đến môi trường do các hoạt động trong thời gian họ lưu trú tại điểm đến. Vì vậy ngay từ đầu, phần đi lại của tiêu dùng và sản xuất du lịch thách thức tính bền vững về môi trường của du lịch.

 

Trong số các giải pháp bền vững thì việc thực hành Mô hình KTTH sẽ giảm thiểu những tác động tiêu cực của tiêu dùng du lịch và góp phần làm cho du lịch phát triển bền vững hơn.

 

2.2. CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT

 

2.2.1  Xây dựng sản phẩm du lịch tuần hoàn

Các nhóm giải pháp về KTTH trong du lịch sau đây là công cụ để tạo giá trị xã hội cho Côn Đảo, góp phần làm giảm khí thải để đảm bảo cho việc bảo toàn vùng du lịch Côn Đảo dựa vào thiên nhiên và carbon thấp bao gồm:

 

  • Nhóm sản phẩm chính sách (KTTH Du lịch Côn Đảo)
  • Nhóm sản phẩm nguồn nhân lực phục vụ du lịch đáp ứng vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn và giao thức về an toàn và sức khoẻ giai đoạn hậu đại dịch.
  • Nhóm các sản phẩm dịch vụ du lịch về Kinh tế tuần hoàn
  • Nhóm sản phẩm Bộ công cụ thực hiện KTTH Du lịch Côn Đảo carbon thấp

 

 

  • Nhóm sản phẩm chính sách (KTTH Du lịch Côn Đảo)

Nhằm thực hiện thành công vai trò của ngành du lịch trong phát triển kinh tế địa phương đạt được tăng trưởng xanh và bền vững thì việc xây dựng một hệ thống chính sách về KTTH cho toàn bộ cơ cấu kinh tế của Huyện là việc làm ưu tiên đầu tiên giai đoạn mở cửa kinh tế trong thời gian đại dịch và hậu đại dịch 2022-2026-2030 hướng đến 2050.

Một hệ thống chính sách KTTH bao gồm một chính sách khung cho tất cả các ngành có liên quan để phát triển kinh tế địa phương mà du lịch là ngành chủ chốt để vận hành. Tiếp theo đó, chính sách KTTH của các ngành có liên quan để hỗ trợ kinh tế du lịch cần được thực hiện song song. Ngành du lịch không thể trở nên bền vững một mình khi các ngành hỗ trợ có liên quan trực tiếp và gián tiếp không có chung các tiêu chí thực hành bền vững. Cụ thể, địa phương cần xây dựng bộ sản phẩm chính sách KTTH cho ngành chính như sau: du lịch, nông nghiệp, môi trường, xây dựng, giao thông vận tải,…

 

  • Nhóm sản phẩm nguồn nhân lực phục vụ du lịch đáp ứng vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn và giao thức về an toàn và sức khoẻ giai đoạn hậu đại dịch.

Như chúng ta đã biết, nguồn nhân lực là nền tảng để thực hiện tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi của một hệ thống vận hành của tổ chức. Trong phạm vi của bài nghiên cứu này, việc xây dựng một nguồn nhân lực có chuyên môn, đòi hỏi thêm về kiến thức cũng như kỹ năng của các giao thức mới trong thời đại công nghệ phát triển đáng kinh ngạc mỗi ngày; và càng áp lực hơn là chúng ta cần thích ứng để tồn tại trong đại dịch làm đòn bẩy cho mở cửa kinh tế sau đại dịch. Do đó, địa phương cần xây dựng một khung chương trình đào tạo được thiết kế riêng theo đặc tính và hiện trạng của nguồn nhân lực sẳn có. Đây là bộ công cụ để hỗ trợ lực lượng nhân viên phục vụ toàn ngành du lịch theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt để nâng chất lượng sống cũng như để thực hành và thụ hưởng giá trị của nền KTTH mang lại cho cộng đồng cư dân trên đảo.

Thiết kế riêng Chương trình khung cho sản phẩm nguồn nhân lực phục vụ du lịch theo giao thức mới bao gồm các nhóm định hướng đào tạo lồng ghép kiến thức và kỹ năng về vận hành KTTH như sau:

  • Bộ công cụ Quản trị điểm đến theo mô hình PEM (Con người – Môi trường – Thị Trường): quản trị nhân tài, quản trị hệ thống sản phẩm du lịch đảm bảo tiêu chí môi trường, quản trị thị trường mục tiêu: dành cho lãnh đạo của các cơ quan quản lý du lịch địa phương.
  • Bộ Kỹ năng vận hành kinh doanh theo mô hình KTTH: dành cho doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch
  • Bộ công cụ Nâng cao năng lực về KTTH trong du lịch: dành cho cư dân trên đảo.

 

Chương trình đào tạo chi tiết sẽ được thiết kế theo hướng cung cấp bộ Tư duy – Kỹ năng – Công cụ và chuyển giao quyền sở hữu cho địa phương sau khi dự án kết thúc.

Để thực hiện được sản phẩm đào tạo này, địa phương cần thành lập một trung tâm/trường đào tạo chuyên biệt về gói sản phẩm này với lộ trình phát triển tương ứng theo từng giai đoạn. Đây là một trong những kỹ thuật để xây dựng hình ảnh Du lịch Côn Đảo theo mô hình KTTH dựa vào thiên nhiên và carbon thấp.

  • Nhóm các sản phẩm về Kinh tế tuần hoàn

Du lịch đóng góp quan trọng vào việc làm và GDP ở nhiều quốc gia và khu vực. Du lịch cũng có tiềm năng đóng góp vào sự phát triển ở các vùng nông thôn, ngoại ô hoặc các vùng kém phát triển. Thật vậy, cơ sở hạ tầng được tạo ra cho mục đích du lịch góp phần vào sự phát triển của địa phương, trong khi việc làm được tạo ra hoặc duy trì có thể giúp chống lại sự suy giảm công nghiệp hoặc nông thôn. Tuy nhiên, du lịch cũng gây ra những tác động môi trường đáng kể và có thể tạo ra áp lực lớn đối với tài nguyên địa phương, tạo ra ngoại tác tiêu cực.

Ngoài việc sử dụng đất, hạ tầng du lịch đòi hỏi các nguồn tài nguyên như nước, năng lượng và thực phẩm, tạo ra một lượng lớn chất thải (chất thải rắn và nước thải), cũng như tắc nghẽn đường sá, tiếng ồn và ô nhiễm không khí và phát thải CO2. Đó là mô hình nền kinh tế tuyến tính mà chúng ta đang theo đuổi.

Tuy nhiên, các tài liệu về KTTH được phát triển chủ yếu cho lĩnh vực sản xuất, và có rất ít tài liệu tham khảo về lĩnh vực du lịch mặc dù thực tế rằng đây là một ngành chủ yếu được cấu hình xung quanh mô hình kinh tế tuyến tính. Do đó, nhiều giải pháp KTTH cũng có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp du lịch và điểm đến để đảo ngược xu hướng và giảm tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên, chất thải và phát thải CO2. Tuy nhiên, ngay cả khi thừa nhận rằng nguồn tài nguyên khan hiếm và hạn chế và mô hình tuyến tính này không còn khả thi, nhìn chung, ngành du lịch vẫn chưa cho thấy sự chuyển đổi rõ ràng và dứt khoát sang mô hình du lịch tuần hoàn.

Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi đặt trọng tâm phát triển KTTH cho ngành du lịch dựa vào những sản phẩm du lịch hiện có của Côn Đảo. Song song đó, nhóm nghiên cứu cũng đề xuất thêm các sản phẩm du lịch phù hợp với xu hướng du lịch trên thế giới nhằm tạo lộ trình cho Côn Đảo tham gia vào thị trường chuỗi giá trị ngành du lịch toàn cầu.

 

  • Vườn Quốc gia Côn Đảo – Điểm du lịch tuần hoàn

Tiếp tục thực hiện dự án bảo vệ môi trường Không Nhựa Một Lần K0N1 do Tập đoàn Truong Dinh tài trợ. Đây là nền tảng thí điểm để Huyện Côn đảo thực hiện các sản phẩm du lịch Carbon thấp như : cân bằng sức chứa trong du lịch giữa dấu chân carbon và dấu chân sinh thái cho từng du khách tại khu du lịch Vườn Quốc gia. Đồng thời triển khai các hoạt động tái tạo nguồn lực thiên nhiên – vốn xã hội và vốn con người.

  • Sản phẩm khách sạn tuần hoàn

 

  • Resort Six Senses là một mô hình vận hành cơ sở lưu trú dựa vào thiên nhiên. Từ hình mẫu này, Huyện Côn Đảo nhân rộng mô hình lưu trú tái tạo vốn tự nhiên và vốn xã hội hiện có của địa phương và khuyến khích các khách sạn tại Côn Đảo thực hiện các tiêu chí như đề xuất bên dưới:
  • Xây dựng bộ tiêu chí và công cụ đo lường dấu chân nước và dấu chân carbon trong cơ sở lưu trú;
  • Phát triển hợp tác chuỗi cung ứng sâu hơn nhằm mục đích đồng tạo ra giá trị trong mạng lưới khách sạn địa phương mở rộng;
  • Xác định các cơ hội tạo ra giá trị tuần hoàn và lộ trình triển khai thông qua việc lập bản đồ chuỗi cung ứng;
  • Xem xét việc dịch vụ hóa các khoản chi tiêu cho tài sản có giá trị cao / trung bình, chẳng hạn như giường, đồ nội thất, thiết bị F & B thông qua các thỏa thuận Hệ thống Dịch vụ Sản phẩm;
  • Xem xét sự tương hỗ của các nguồn lực, vật liệu và tài sản nhàn rỗi (ví dụ: làm mới các tài sản đã cũ, chia sẻ nền tảng về kênh phân phối/marketing, bán hàngv.);
  • Tập trung vào việc định vị thị trường và truyền thông tiếp thị thông qua cách kể chuyện và thông điệp thương hiệu của khách sạn có dán nhãn KTTH;
  • Triển khai các công cụ giám sát tác động môi trường và các công cụ giám sát hành động của KTTH để đo lường “năng suất tài nguyên” của tài sản, tức là “năng suất vật chất của tài sản”;
  • Triển khai Hệ thống Quản lý Môi trường (EMS) để giám sát tiêu thụ năng lượng, sử dụng tài nguyên, khí thải, chất thải thực phẩm và các cơ hội tiết kiệm chi phí vận hành liên quan;
  • Tăng cường hợp tác với các tổ chức chứng nhận tính bền vững tư nhân và các cơ quan quản lý của chính phủ;
  • Sử dụng khuôn khổ SDG của Liên hợp quốc làm khuôn khổ truyền thông tiếp thị;
  • Khám phá các cơ hội đồng tạo giá trị khung với chủ sở hữu bất động sản và các bên liên quan trong ngành xây dựng thông qua các mô hình kinh doanh sáng tạo;
  • Sử dụng kiến ​​thức chuyên môn của bên thứ ba của chuyên gia KTTH để cung cấp cho nhân viên hiểu biết về các cơ hội và thông lệ KTTH trong khi không chuyển hướng nguồn lao động hiện có.
  • Du lịch Nông nghiệp Tuần Hoàn

 

  • Khái niệm kinh tế nông nghiệp tuần hoàn là chiến lược phát triển bền vững nông nghiệp dựa trên nguyên tắc 3-R và bao gồm nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp bền vững. Nội hàm của kinh tế tuần hoàn và nông nghiệp sinh thái.

 

  • Nhóm nghiên cứu đề xuất chọn 60 hộ dân trồng hoa màu và cây ăn trái ở khu dân cư số 1, 2 và 3 và 70 hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm như heo gà vịt và một số hộ nuôi trồng thuỷ sản đang thực hiện nông nghiệp bền vững tiếp tục áp dụng lý thuyết KTTH như một hướng dẫn để tối ưu hóa việc sử dụng vật liệu và năng lượng cho mục đích sử dụng nguyên tắc 4R (Giảm thiểu, Tái sử dụng, Tái chế và Tổ chức lại).

Đây cũng là nguồn cấp nguyên liệu đầu vào bền vững cho ngành ẩm thực tại các cơ sở lưu trú, và nhà hàng, quán ăn của Huyện để phục vụ du khách và cư dân. Bên cạnh đó, các mô hình nông nghiệp bền vững này cũng là nơi để Huyện thiết kế các mô hình du lịch sinh thái nông nghiệp.

 

  • Ngoài ra, việc “bao vây” bãi biển không chỉ là hiện tượng có vấn đề về môi trường mà còn là yếu tố làm giảm sức hấp dẫn du lịch của các khu nghỉ dưỡng ven biển. Từ đó tạo ra một vấn đề xã hội. Việc sử dụng bao bì bị vứt ở bãi biển như một loại phân bón trong nông nghiệp hoặc làm giàu phân trộn sẽ đóng sự tuần hoàn của các chất hữu cơ trong môi trường, đi vào hệ thống thành một nền kinh tế tuần hoàn.

 

  • Sản phẩmDu lịch Văn hóa – Lịch sử tuần hoàn

Du lịch văn hóa chiếm khoảng 37% tổng ngành du lịch, với mức tăng trưởng hàng năm khoảng 15%. Việc thúc đẩy các nguyên tắc KTTH trong việc phục hồi và bảo tồn các sáng kiến ​​di sản là rất quan trọng cho sự liên tục bền vững của lĩnh vực này.

Việc thực hiện lý thuyết KTTH sẽ dẫn đến việc bảo vệ lâu dài các khu di tích văn hóa lịch sự của Côn Đảo thông qua thực hành thiết kế sinh thái, bảo tồn năng lượng, cung cấp các cơ sở dịch vụ xanh, chất thải xử lý sinh thái và tiêu dùng xanh.

Phát triển bền vững các dự án tái tạo di tích văn hóa lịch sử tập trung sự chú ý vào mối quan hệ kép giữa ngành du lịch và biến đổi khí hậu. Di tích văn hoá lịch sử đóng một vai trò bên lề trong Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững vì nó được đề cập trong mục tiêu 11 “Làm cho các thành phố và các khu định cư của con người trở nên toàn diện, an toàn, linh hoạt và bền vững”. Mô hình KTTH là nền tảng để đảm bảo thúc đẩy phát triển kinh tế địa phươngvà thực hiện phát triển các danh lam thắng cảnh trong đó có di tích văn hoá lịch sử.

  • Sản phẩm du lịch sự kiện tuần hoàn

Tổ chức Sự kiện (TCSK) là một trong những phân ngành của ngành du lịch. Hay nói khác đi, TCSK là công cụ để triển khai du lịch M.I.C.E. Với đặc tính du lịch của Côn Đảo hiện có, việc tạo ra sản phẩm du lịch sự kiện bền vững theo mô hình KTTH là khả thi. Cụ thể, sản phẩm này được áp dụng theo các nguyên tắc của KTTH như sau:

Thực hành tính bền vững trong TCSK bao gồm: tránh lãng phí, đo lường dấu chân carbon của khách, tính toán các loại chất thải của sự kiện, tái sử dụng nguyên vật liệu phục vụ sự kiện, thiết kế thực đơn xanh để phục vụ khách và chia sẻ thức ăn cho các tổ chức thiện nguyện, trại mồ côi và người già neo đơn; tiết kiệm các chi phí không cần thiết, sử dụng nguyên liệu được sản xuất từ cư dân trên đảo … Tất cả các thực hành này tạo nên một giá trị tuần hoàn cho phân ngành du lịch M.I.C.E

 

  • Nhóm sản phẩm Bộ công cụ thực hiện KTTH Du lịch Côn Đảo carbon thấp

 

  • Ứng dụng năng lượng tái tạo

Năng lượng tái tạo đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi theo mô hình KTTH trong lĩnh vực du lịch. Việc sử dụng tài nguyên tái tạo thúc đẩy tính bền vững là một khía cạnh quan trọng cho việc áp dụng kinh tế tuần hoàn trong du lịch.

Những năng lượng tái tạo này có thể được sử dụng rộng rãi trong các khu du lịch, lưu trú, ăn uống, vận chuyển, mua sắm, giải trí và các doanh nghiệp du lịch khác.

Mối quan tâm hiện tại đối với du lịch và các nguyên tắc lưu thông bằng cách thực hiện Quy trình Mạng lưới phân tích Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội và Đe doạ (SWOT-ANP) để khám phá tiềm năng phát triển của nhà máy chế biến sinh học có thể tích hợp quản lý chất thải, năng lượng tái tạo và sản xuất các sản phẩm sinh học trong ngành du lịch. Đồng thời, áp dụng phương pháp phân tích SWOT để khám phá nền kinh tế các-bon thấp, tối ưu hóa cấu trúc năng lượng, thúc đẩy du lịch các-bon thấp, phát triển kinh tế tuần hoàn, và nâng cao khả năng nhận chìm carbon ở Côn Đảo. Ngoài ra, việc phân tích tiềm năng thu hồi chất thải rắn của Huyện như một giải pháp thay thế hiệu quả cho các bãi rác. Đó sẽ là một nguồn năng lượng bổ sung cho nhiệt và điện.

Việc đưa ra đánh giá về các yếu tố cần thiết đã góp phần vào những thay đổi cơ bản trong Sản xuất sạch hơn (SXSH), chỉ ra mối liên hệ giữa SXSH với nền kinh tế xanh và KTTH. Ngành du lịch nên sử dụng các phương pháp tiếp cận SXSH để giảm thiểu lượng khí thải carbon và sử dụng các yếu tố đầu vào hiệu quả hơn để thực hiện chuyển đổi sang nền KTTH.

Nghiên cứu các hệ thống năng lượng tái tạo được sử dụng trong nền KTTH du lịch bằng cách chọn một danh lam thắng cảnh có các-bon thấp, ví dụ như Vườn Quốc gia Côn Đảo, bằng cách điều tra hành vi tiêu dùng của những người sử dụng các tiện ích chia sẻ. Đồng thời, phân tích mức độ thực hiện KTTH trong lĩnh vực năng lượng của các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ (SME) ở khu vực ven biển. Xem xét các thách thức và rào cản hiện tại, chẳng hạn như sử dụng nhiều năng lượng, tiêu thụ nhiều nước và phá hủy môi trường sống. Các yếu tố liên ngành chính trong du lịch bền vững, bao gồm năng lượng xanh, giao thông xanh, công trình xanh, cơ sở hạ tầng xanh, nông nghiệp xanh và công nghệ thông minh đều được áp dụng.

  • Ứng dụng giao thông và di chuyển bền vững

 

Các cộng đồng trên đảo thường không có khả năng tự chủ xây dựng các kế hoạch toàn diện để bảo vệ môi trường, phát triển giao thông và du lịch. Đồng thời, họ ngày càng lo lắng để bảo tồn bản sắc, môi trường, sự giàu có tự nhiên và văn hóa của họ. Để tạo ra một bản sắc địa điểm độc đáo thành một sản phẩm cạnh tranh và xuất khẩu hình ảnh này ra toàn cầu, các cộng đồng trên đảo phải tập trung vào tiềm năng môi trường (xanh), hữu hình và vô hình của họ. Giao thông vận tải đại diện cho một hệ thống công nghệ, kinh tế và xã hội phức tạp khó quản lý một cách toàn diện, đặc biệt là trong bối cảnh nhu cầu ngày càng tăng trên toàn cầu về cơ giới hóa và di chuyển (Goldman & Gorham, 2006). Đặc biệt, tầm nhìn về giao thông bền vững (xanh) đòi hỏi sự phát triển của một hệ thống tích hợp có thể so sánh các chính sách khác nhau trong bốn lĩnh vực chính: Kinh tế, Môi trường, Xã hội và Du lịch.

Một số đề xuất sau đây để thực hành di chuyển bền vững nhằm góp phần tạo nên môi trường carbon thấp cho Côn Đảo

  • Ủng hộ việc sử dụng xe đạp/ xe đạp điện
  • Giảm sử dụng ô tô cá nhân của người dân
  • Hỗ trợ giao thông công cộng
  • Tăng cường kiểm tra an toàn đường bộ
  • Cải thiện thông tin về giao thông công cộng
  • Tạo đường dành cho người đi bộ
  • Tạo làn đường dành cho xe đạp
  • Tăng cường sử dụng các công nghệ mới trong vận tải hàng loạt
  • Hỗ trợ ô tô với nhiên liệu thay thế
  • Kiểm soát chặt chẽ hơn việc đỗ xe bất hợp pháp
  • Thay đổi giờ mở cửa của cửa hàng
  • Giảm việc sử dụng các phương tiện chở khách của khách du lịch

 

  • Ứng dụng nền kinh tế không tiếp xúc vào các dịch vụ du lịch

Ở nhiều khía cạnh, công nghệ có tác động lớn đến sự phát triển của ngành du lịch. Điều đó như một cuộc cách mạng trong quá trình phân phối sản phẩm du lịch, giao tiếp với người tiêu dùng và giữa các chủ thể kinh doanh, tạo ra hình ảnh điểm đến, tiếp cận thông tin, giảm giá sản phẩm du lịch, an toàn vận tải, cạnh tranh thị trường và quản lý quan hệ khách hàng (CRM).

Sự phát triển của công nghệ đồng thời là động lực của ngành du lịch vì nhiều lý do. Công nghệ đã ảnh hưởng đến chi phí, tiếp thị, khả năng cạnh tranh của những người tham gia vào du lịch. Khi nói đến chi phí, công nghệ đã ảnh hưởng đến tính linh hoạt của giá cả, giảm chi phí lao động, giảm chi phí phân phối sản phẩm và dịch vụ, hoặc tăng hiệu quả của chi phí tổng thể trong ngành du lịch. Ngoài ra, thông qua công nghệ, có thể đáp ứng ngay cả những người tiêu dùng khó tính nhất, cung cấp thông tin chính xác, phản ứng nhanh chóng với những biến động của nhu cầu thị trường, hỗ trợ nghiên cứu tiếp thị và cung cấp hỗ trợ từ chính phủ và các tổ chức nhà nước khác theo một cách nào đó tạo điều kiện thuận lợi hoạt động của du lịch như một ngành công nghiệp quan trọng.

Mục tiêu quan trọng mà ngành du lịch áp dụng công nghệ để chuyển đổi hoạt động của chuỗi cung ứng là bảo vệ môi trường rất lớn. Ví dụ, các khách sạn hoặc công ty lữ hành áp dụng công nghệ trong giao tiếp/bán hàng qua các nền tảng kỹ thuật số sẽ giảm được vận hành trang thiết bị in ấn, từ đó sẽ giảm khối lượng chất thải ra môi trường; tiết kiệm được chi phí, thời gian và sức lao động. Từ đó, sức khoẻ của nhân viên được bù đắp và tái tạo ở môi trường làm việc có ít khí thải hơn; khách du lịch và cộng đồng cư dân cũng thụ hưởng giá trị môi trường sạch hơn.

 

Các đề xuất về sản phẩm du lịch tuần hoàn ở phần nghiên cứu này sẽ tạo nên một hình ảnh Côn Đảo thực hành mô hình KTTH trong phát triển kinh tế địa phương. Chúng ta từng bước tuần hoàn giữa các ngành có liên quan đến du lịch và các phân ngành trong ngành du lịch tạo thành ma trận tuần hoàn khép kín.

Tất cả các sản phẩm du lịch tuần hoàn này đều được dán nhãn bởi các tổ chức quốc tế có uy tín. Phần này sẽ được nhóm nghiên cứu đề xuất ở mục xây dựng thương hiệu và truyền thông thương hiệu du lịch Côn Đảo.

2.2.2  Xây dựng thị trường cho điểm đến (Nghiên cứu thị trường)

 

  • Xác định thị trường mục tiêu
  • Thực hiện nghiên cứu sâu và phân tích nhóm khách du lịch có thị hiếu và thói quen tiêu dùng tương đồng với đặc tính du lịch của Vũng Tàu.
  • Phạm vi:
  • Trong nước,
  • Nhóm thị trường châu Á:Đông Dương (3 quốc gia)/ Tiểu vùng Sông Mekong (6 quốc gia)/ Đông Nam Á (10 quốc gia)/ Thái Bình Dương (22 quốc gia)/ Châu Á (50 quốc gia)
  • Nhóm thị trường châu Âu: Trung – Tây – Bắc Âu
  • Nhóm thị trường Mỹ: Bắc – Nam Mỹ
  • Nhóm thị trường Châu Úc.
  • Nhóm thị trường Châu Phi
  • Nhóm thị trường Trung Đông

 

 

  • Xác định người mua (công ty lữ hành)
  • Lập tiêu chí chọn Người mua có lịch sử kinh doanh về các tour du lịch bền vững như: du lịch có trách nhiệm.
  • Định hướng, khuyến khích các đơn vị lữ hành trong tỉnh triển khai các tour du lịch bền vững (thể hiện trong kế hoạch tour tuyến của các đơn vị)
  • Phát triển mối quan hệ đối tác với Người mua tại các thị trường mục tiêu trong và ngoài nước.
  • Chọn top 5 đơn vị lữ hành quốc tế (được công nhận bởi xếp hạng của các tổ chức có uy tín nhưWTA (giải thưởng du lịch quốc tế), WTTC (Hội đồng du lịch và lữ hành quốc tế), WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới)) có hoạt động tương ứng với chính sách phát triển du lịch KTTH của Côn Đảo.

 

  • Xác định nhà đầu tư (cá nhân hoặc tổ chức)

 

  • Lập tiêu chí chọn nhà đầu tư có lịch sử kinh doanh theo dòng sản phẩm du lịch bền vững, du lịch tuần hoàn.
  • Thực hiện các kiểm toán xã hội (đạo đức kinh doanh) đối với nhà đầu tư.
  • Ban hành tiêu chí/quy định đầu tư du lịch tuần hoàn tại Côn Đảo.
  • Hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án khảo sát tiền khả thi.
  • Đàm phán đầu tư

 

2.2.3 Truyền thông và quảng bá điểm đến Côn Đảo (chiến lược định vị du lịch Côn Đảo)

  • Xây dựng Bộ nhận diện thương hiệu:
  • Xác định tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi của du lịch tuần hoàn Côn Đảo.
  • Công bố logo và slogan của du lịch tuần hoàn Côn Đảo.
  • Xây dựng kênh truyền thông

Xây dựng hệ thống “tiếng nói chính thức” của du lịch tuần hoàn Côn Đảo bằng các phương tiện: Website, Youtube, Fanpage FaceBook, Intragram, LinkedIn, Twitter, Zalo.

  • Xây dựng thông điệp cốt lõi và nội dung truyền thông “Du lịch biển-thiên nhiên-carbon thấp”
  • Xây dựng bộ công cụ xử lý khủng hoảng truyền thông
  • Lập kế hoạch Kịch bản Truyền thông Chủ động.
  • Xây dựng các Ứng dụng ứng cứu khẩn cấp trên thiết bị di động.

 

Trần Bảo Trân,

CEO GapEdu

Giám đốc Toàn cầu về Hợp tác Viện Diễn đàn du lịch Thế giới

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *